25/11/2025
TS. Nguyễn Văn Thắng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề chung về già làng, trưởng bản và vai trò của họ trong bảo vệ môi trường, giữ gìn văn hoá nông thôn. Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, lịch sử tác giả tập trung đánh giá, nhận định vai trò của già làng, trưởng bản trên các mặt bảo vệ môi trường sinh thái, môi trường xã hội tộc người, giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá tộc người trong bối cảnh mới, khẳng định sức mạnh và sự cần thiết phải duy trì hợp lí vai trò của các thiết chế này. Đồng thời, bài viết cũng nêu ra một số giải pháp nhằm củng cố và phát huy vai trò của già làng, trưởng bản trong bối cảnh mới hiện nay.
Từ khoá: Vai trò già làng, trưởng bản; bảo vệ môi trường; giữ gìn văn hoá nông thôn.
1. Một số vấn đề chung về già làng, trưởng bản
Về khái niệm Trưởng bản dùng chỉ những người đứng đầu một bộ máy tự quản của một đơn vị cư trú, thường thấy ở vùng núi phía Bắc nước ta, phổ biến ở các tộc người như: Thái, Mường, Tày, Nùng, Mảng, Lô Lô,… Họ là người quản lí và chăm sóc không gian sinh tồn của một cộng đồng người, đây là những người tiêu biểu ở địa phương, hiểu biết về kinh nghiệm và tri thức tại chỗ, có thể chăm lo tốt cho làng bản. Trong truyền thống, trưởng bản thực hiện nhiệm vụ với cộng đồng, hiện nay, trưởng bản bằng trách nhiệm được giao thực thi các nhiệm vụ được phân công đã có nhiều hơn lợi ích được nhận từ Nhà nước để chăm lo cho đời sống xã hội của thôn bản mình.
Trưởng bản là chức danh do dân bầu ra nhằm thực hiện yêu cầu của công tác và thực hiện các chính sách của Nhà nước đối với bà con, nên trong hệ thống, cần những người trẻ, có tri thức, nhanh nhẹn, và am hiểu chính tộc người họ đang sống. Cũng cần phải nói thêm rằng, lớp người cao tuổi và am hiểu khoa học kĩ thuật ở bản không có nhiều. Người già am hiểu về văn hoá tộc người nhưng lại hạn chế về tiếp nhận khoa học, tiếp nhận cái mới nên một lớp tri thức mới được đào tạo, học tập và tiếp thu khoa học mới dần nhận được sự tin yêu, đồng thời các cấp lãnh đạo cũng đang cần bổ sung lực lượng trẻ như vậy, cho nên, trưởng bản ở vùng núi phía Bắc có nhiều người trẻ được định hướng phát triển. Đây cũng là xu hướng tất yếu trong cơ cấu phát triển nguồn nhân lực xã hội ở các địa phương nước ta.
Như vậy, trưởng bản được hiểu là: (i) là người do dân trong một đơn vị cư trú trực tiếp bầu ra; (ii) họ chịu sự quản lý về mặt chính quyền ở bản, thực hiện các hoạt động theo sự phân công, điều động của chính quyền cấp trên; (iii) đặt dưới sự chỉ đạo toàn diện, trực tiếp, của Chi bộ thôn.
Về khái niệm Già làng, trước tiên cần phải nhận định rằng: Khái niệm già làng, là thuật ngữ do các nhà nghiên cứu đặt cho một người trong cộng đồng làng và chỉ xuất hiện sau 1954. Khái niệm này phổ biến ở các tộc người đã cư trú lâu đời ở các tỉnh thuộc Tây Nguyên và cộng đồng các dân tộc cùng chung không gian văn hoá xã hội vùng Tây Nguyên (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Phước,…). Trong cộng đồng người tại chỗ, họ có những khái niệm như: Người đứng đầu một buôn, người đứng đầu một vùng đất (chủ bến nước, chủ buôn, chủ đất,…) trong tiếng Ê Đê gọi là: Pô pin ea, Pô lăn; người Mơ Nông goi là: Kruanh bon, U ruanh bon; người Xê Đăng gọi là: Kră plé; người Ba Na gọi là: Book kră plei;… Già làng là hội tụ của nhiều yếu tố, nhưng tựu chung lại nó mang hai yếu tố cơ bản: Yếu tố xã hội và yếu tố tín ngưỡng, nói cách khác là yếu tố thúc đẩy xã hội phát triển, điều hòa xã hội làng và sứ giả của thần linh che chở cho làng. Thiết chế ấy là một mắt xích then chốt nhất để vận hành đời sống cộng đồng buôn làng truyền thống khi xã hội còn mang đậm sắc thái của xã hội nguyên sơ. Già làng là một chức danh dân gian được suy tôn do lòng kính trọng và nể phục, đồng thời, họ không tạo thành tầng lớp thống trị nên ở đây không có sự tranh chấp chức vị. Họ là những cá nhân tiêu biểu trong lao động sản xuất, trong việc thực hiện các lễ nghi truyền thống và giỏi áp dụng luật tục để điều hòa các mối quan hệ của cộng đồng. Họ cũng có trách nhiệm bảo tồn và trao truyền giá trị văn hoá tộc người mình cho thế hệ tiếp sau. Họ không được nhận bất kỳ khoản thù lao nào từ dân làng, họ chỉ nhận được sự kính trọng và vị nể của bà con, với lòng kính trọng ấy, họ đóng góp sức lực của mình cho làng, cho cuộc sống sinh hoạt của làng.
Trong tiếng Việt, già làng có nghĩa là người già ở làng. Dùng danh từ già làng để chỉ một cá nhân hay một lớp người cao tuổi ở nông thôn, trong các văn bản, tài liệu, công văn giấy tờ, văn học nghệ thuật,… thuật ngữ già làng thường được dùng chỉ một cá nhân cao tuổi hay một lớp người cao tuổi được kính nể, được trọng vọng do tuổi cao, do sự cống hiến cả quãng đời thanh niên cho buôn làng, do phẩm chất đạo đức trong sáng, mẫu mực thủy chung, do vốn kinh nghiệm tích lũy được có thể giúp ích cho dân làng bằng những lời khuyên thiết thực, hợp tình hợp lí[1]. Như vậy, trong tâm thức chung của mọi người, già làng là thuật ngữ chỉ một người hay được dùng ở Tây Nguyên và vùng không gian văn hoá xã hội phụ cận còn ở vùng núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ,… thuật ngữ này ít được sử dụng hơn.
Theo nhà nghiên cứu Linh Nga Niê Kdam, già làng là tổng hợp ý thức của hai khái niệm cá nhân và cộng đồng, cá nhân ở đây được sàng lọc và lựa chọn theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt như tuổi tác, kinh nghiệm, sự tín nhiệm,... được tập thể cùng đồng lòng tôn vinh. Nghĩa là: Già làng = sự hợp nhất giữa cái cá nhân tiêu biểu + sự thống nhất, đồng thuận của cộng đồng. Cái cá nhân chỉ được tôn vinh khi và chỉ khi nó là cái tiêu biểu trong đời sống, mà cái tiêu biểu ấy là sự am hiểu tri thức truyền thống, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, trong đời sống và nhận được sự tín nhiệm của mọi người trong làng, đồng thời tín nhiệm ở đây bao hàm cả sự ủy thác của thần linh. Theo GS. Phan Hữu Dật, già làng là lớp người cao tuổi, được chuyển từ lớp người thanh niên sang lớp người cao niên. Khi nói đến già làng, là người ta muốn nói tới con người không còn ở tuổi thành niên với tất cả nhiệm vụ và quyền lợi được luật tục quy định, mà chuyển sang lớp tuổi khác. Như vậy, già làng là người cao tuổi nhưng không nhất thiết là người cao tuổi nhất trong buôn và nhất thiết phải là người không còn ở lớp tuổi thanh niên, theo luật tục quy định đối với từng cộng đồng[2]. Nhưng nay, cũng có những già làng trẻ hơn và không thuộc lớp lão hạng, điều này phản ánh một xu thế tiếp nhận cái mới trong văn hóa các tộc người, đồng thời cũng cho thấy, lực lượng trí thức mới, với khoa học công nghệ và cải tiến kỹ thuật đang dần có thể thay thế những tri thức tại chỗ mà tri thức ấy nhiều lúc, nhiều nơi đã không còn phù hợp.
Về “Những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương” đây là khái niệm được đưa ra trong nghị quyết Đại hội IX của Đảng về vấn đề dân tộc. Tại Hội nghị, vấn đề dân tộc được thảo luận nhiều, đặc biệt là vấn đề những người tiêu biểu ở địa phương, theo đó, trong nghị quyết lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc có ghi “Có chính sách động viên, bồi dưỡng, hướng dẫn và phát huy vai trò của những người có uy tín trong đồng bào dân tộc, trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các địa bàn dân cư vùng dân tộc và miền núi”. Như vậy, khái niệm “Những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương” là một khái niệm tương đối hoàn chỉnh và phần nào đáp ứng được yêu cầu đó. Trước hết, họ phải là những người tiêu biểu, nghĩa là: Họ phải có kinh nghiệm trong sản xuất, giỏi làm kinh tế, có sự hiểu biết về phong tục tập quán của tộc người mình, người đó phải là người dũng cảm, gan dạ, thông minh, hội đủ những đức tính của một thủ lĩnh thực sự. Hai là: Người đó phải là người có uy tín trong dân tộc, vậy người có uy tín cần hội đủ những đức tính gì? người đó phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, biết chăm lo cho đời sống của cộng đồng làng bản, thôn xóm, sống lành mạnh, là tấm gương cho mọi người noi theo,… là người nhận được sự nể phục của mọi người cùng dân tộc. Khái niệm này cũng phản ánh đúng đắn tình hình phát triển xã hội ở nhiều địa phương trong cả nước, bởi sự cộng cư, đan xen, giao thoa đang hàng ngày, hàng giờ diễn ra. “Những người có uy tín trong dân tộc” là chưa đủ, mà phải là“Những người có uy tín trong dân tộc và ở địa phương” (chúng ta hay gọi tắt là người có uy tín), vì rất có thể trong cùng một bản, buôn, thôn,… không chỉ có một tộc người, có thể có hai, ba và nhiều hơn nữa các tộc người cùng cộng cư. Vì vậy, đây là khái niệm mang tính bao quát cao, phản ánh được nhiều khía cạnh, nhiệm vụ xây dựng và phát triển xã hội ở địa phương trên cả nước.
Như vậy, các khái niệm già làng, trưởng bản, người có uy tín đều có điểm chung, tức là họ đều phải là người tiêu biểu, có uy tín trong tộc người mình và cư trú ở địa phương. Phải là người hiểu biết phong tục, tập quán, tri thức, kiến thức trong phát triển sản xuất và phải tự nguyện chăm lo đời sống cho người dân, giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá tộc người, nêu gương, hướng dẫn và thực hiện tốt chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Họ được cộng đồng tôn vinh và thực hiện chức trách đối với buôn làng của mình và xã hội.
2. Vai trò của già làng, trưởng bản trong bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hoá nông thôn
Già làng, trưởng bản có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội dân tộc, nó được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường,… Song, ở nội dung này chúng ta đề cập tới hai điểm chính là vai trò của già làng, trưởng bản trong bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hoá nông thôn, thể hiện trên một số điểm sau:
Một là: Làm gương từ chính bản thân, trong gia đình tới cộng đồng là việc phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Đây chính là điểm thể hiện vai trò của già làng, trưởng bản - những người được người dân bầu, suy tôn.
Thực tế cho thấy rằng, nếu già làng, trưởng bản,… những người đứng đầu, có uy tín, tiếng nói có ảnh hưởng tới một bộ phận lớn người dân trong thôn bản mà không làm gương, không gưỡng mẫu trong thực hiện việc bảo vệ môi trường sống, giữ gìn văn hoá truyền thống của dân tộc thì không thể có vai trò ảnh hưởng lớn tới cộng đồng chính nơi mình cư trú được. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Mỗi cán bộ phải làm gương mẫu”[3], đồng thời Người cũng làm rõ vai trò của người đảng viên, người có uy tín đối với cộng đồng của mình rằng “Người đảng viên ở bất kỳ đâu, bất kỳ làm việc gì, bất kỳ địa vị nào và hoàn cảnh nào, cũng phải luôn luôn: Đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết… Phải gần gũi dân chúng, thương yêu, giúp đỡ dân chúng, tổ chức và lãnh đạo dân chúng. Phải giữ vững đạo đức cách mệnh, là chí công vô tư”[4]. Nói như vậy có nghĩa là, già làng, trưởng bản là những người được dân bầu ra, suy tôn lên thì đương nhiên có uy tín với cộng đồng, người dân bầu ra, suy tôn lên để nắm giữ vị trí ấy thì cần thực hiện trách nhiệm nêu gương trong tất cả mọi việc, mà ở đây chính là bảo vệ môi trường sống của người dân và giữ gìn văn hoá tộc người trong bối cảnh mới. Chính sự nêu gương ấy giúp người dân nhìn vào và tự soi lại những hành động của mình trong thực tiễn để xác lý tính phù hợp với hành động của mình trong thực tiễn tại nơi sinh sống.
Bản thân già làng, trưởng bản nêu gương trong bảo vệ môi trường là từ những hành động nhỏ nhất như: Không bỏ rác bừa bãi, không chặt phá cây rừng, không xả thải sinh hoạt, không chăn thả rông để trâu bò phóng uế bừa bãi,… Trong gia đình, cần phải hướng dẫn các thành viên thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường, thực hiện nếp sống văn minh và đối với cộng đồng già làng, trưởng bản cần hướng dẫn, vận động người dân không chặt phá rừng, bảo vệ rừng, thực hành lối sống văn minh. Một ví dụ điển hình cho hoạt động này là già Đinh Công Nguyên, dân tộc Mường, bản Chiềng Lè, xã Chiềng Khoa, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Ông thường xuyên vận động người dân hưởng ứng nhiều phong trào bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh, cảnh quan chung, nhất là các khu vực đón khách du lịch. Vận động người dân thu gom, xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt, chất thải từ chăn nuôi,… Nhờ thế mà Chiềng Lè không còn hiện tượng vứt, xả rác bừa bãi. Ông còn vận động bà con bảo nhau trồng rừng, trồng cây xanh để tạo bóng mát, cảnh quan cho đường làng, ngõ xóm,... Hoặc trường hợp bản Minh Tiến, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Đây là bản đã thành lập được tổ thu gom rác thải với 04 thành viên tham gia, do chị Quang Thị Điệp - Chi Hội trưởng Chi hội Phụ nữ bản Minh Tiến là tổ trưởng. Với ý thức về giữ gìn môi trường và nhận được sự vận động hiệu quả của trưởng bản Lô Xuân Vân người dân rất có ý thức giữ gìn, vệ sinh môi trường, tự họp lại và thống nhất mỗi hộ đóng 20.000 đồng/tháng để có kinh phí cho tổ thu gom rác hoạt động đảm bảo vệ sinh môi trường xanh - sạch - đẹp cho bản[5].
Nêu gương trong các hoạt động văn hoá truyền thống của dân tộc là việc làm quan trọng. Già làng, trưởng bản luôn là người đi đầu, bởi hơn ai hết họ chính là hiện thân của sự am hiểu văn hoá truyền thống của cha ông mình, những điệu múa, lời hát, tri thức địa phương,… Họ nêu gương với hành động cụ thể như: Tham gia tích cực vào việc truyền dạy văn hoá cho thế hệ trẻ; duy trì đúng thuần phong mỹ tục làm gương cho người khác noi theo;…
Hai là: Vai trò đi đầu và tham gia tích cực vào các tổ chức cộng đồng nhằm khẳng định sự quan trọng của thiết chế xã hội này trong bảo vệ môi trường và giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá dân tộc.
Điểm này chúng ta đều thấy, vai trò của già làng và trưởng bản luôn được thể hiện rõ nét. Việc tham gia các tổ chức cộng đồng này một mặt khẳng định tính tiên phong, xung kích của già làng, trưởng bản trong việc chung của cộng đồng, nhưng mặt khác nó thể hiện rõ uy tín của họ trong thực tiễn tổ chức, hoạt động các phong trào ở địa phương và luôn được các tổ chức cộng đồng tin tưởng, phó thác trách nhiệm. Là người tham gia tích cực vào các hoạt động nghiên cứu, tổ chức kêu gọi cộng đồng thực hiện đời sống văn hoá mới ở khu dân cư,… Điển hình cho hoạt động này như ông Lường Văn Dọn ở đội Hua Pe, xã Thanh Luông huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, ông được tôn vinh tại chương trình “Điểm tựa bản làng” toàn quốc năm 2024. Ông đã nhiệt tình tham gia mọi công việc ở khu dân cư; tận tình giúp đỡ bà con nhân dân trong mọi việc bởi ông luôn tâm niệm: “Muốn nói để dân tin, dân làm theo thì mình phải có kiến thức, kinh nghiệm, khéo léo trong việc tập hợp, vận động quần chúng nhân dân tham gia mọi mặt của đời sống xã hội. Gia đình và người thân phải chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, hương ước, quy ước của đội”[6].
Ba là: Già làng, trưởng bản là người đi đầu trong tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta trong bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hoá nông thôn.
Có thể nói rằng, già làng, trưởng bản thiết chế xã hội quan trọng, là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở trong tổ chức và thực hiện các hoạt động trên địa bàn cư trú của mình, đặc biệt trong hoạt động tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hoá dân tộc. Già làng, trưởng bản luôn nắm bắt tốt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân, hiểu rõ phong tục tập quán, điểm mạnh, điểm yếu của địa phương mình. Do đó, khi thực hiện công tác vận động, tuyên truyền, bằng kinh nghiệm của mình, họ đã truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm và hỗ trợ người dân nắm vững những chủ trương, quy định về bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hoá nơi cư trú tốt hơn, hiệu quả hơn trong cộng đồng của mình.
Già làng, trưởng bản là những người không chỉ gương mẫu trong thực hiện chính sách của Nhà nước mà còn đi đầu trong công tác vận động quần chúng nhân dân và phối hợp chặt chẽ với các thiết chế như bí thư chi bộ, trưởng ban công tác mặt trận,… đến vận động từng nhà, từng hộ gia đình ký cam kết bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh hoạt của cộng đồng, thực hiện nếp sống văn hóa mới, từng bước xoá bỏ những tục không còn phù hợp với xã hội mới, thực hiện phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hoá mới. Vận động người dân tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo, tham gia xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật,… “Công tác tuyên truyền phải cho người dân hiểu chủ trương của Nhà nước và của xóm bản về xây dựng nông thôn mới… Bằng sự vận động nhiệt tình, mềm dẻo, cách tuyên truyền “mưa dầm thấm lâu” nên qua một thời gian, 100% người dân đều vui vẻ đồng ý hiến đất làm đường…”[7]. Ở điểm này, già làng, trưởng bản có vai trò đặc biệt quan trọng và có thể nói rằng: Họ chính là hạt nhân gần gũi và thực hiện quả việc phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với người dân, nhất là đối với các bản làng vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Bốn là: Thực hành mô hình phù hợp với thực tiễn địa phương
Điểm này thể hiện vai trò dám nghĩ, dám làm và luôn là người tiên phong trong việc xây dựng và thực hiện các mô hình mới, mô hình thử nghiệm đặc thù được triển khai mẫu, điểm ở địa phương và nhân rộng kết quả nếu thành công. Trong thực tiễn đã có rất nhiều mô hình đã được thực hiện thành công ở nước ta trong quá trình phát triển ở từng địa phương, từng bối cảnh cụ thể và đã ghi nhận sự hiện diện vai trò rất lớn của già làng, trưởng bản. Có thể nhắc tới các mô hình được triển khai rộng rãi và thành công ở Việt Nam như: Mô hình “Tủ sách pháp luật”, “Chức sắc bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ánh sáng an ninh”, “Dòng tộc văn hóa, tự quản về an ninh trật tự”, “Đội xung kích bảo vệ an ninh trật tự đường phố”, “Khu dân cư phòng, chống ma túy”; “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”,…
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số việc thay đổi nhận thức và những điểm truyền thống đã trở thành văn hoá của họ thì rất khó khăn, ví dụ như việc thực hành bón phân cho cây trồng trong trồng trọt, cắt tỉa cành, ngọn cây để tăng năng xuất cây trồng,… Do đó, vai trò dẫn dắt, đi đầu, thử nghiệm, thực hành của già làng, trưởng bản trong những trường hợp này thể hiện rất rõ ràng. Họ là người tiên phong thực nghiệm với tinh thần của người xung kích trên mặt trận mới - mặt trận tuyên truyền cái mới theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta nhằm cải biến nhận thức, nâng cao dân trí của người dân, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Năm là: Vai trò kết hợp luật tục, hương ước với chính sách của Nhà nước
Vai trò của già làng, trưởng bản chính là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại; giữa cái cổ truyền và cái mới; giữa cái truyền thống còn hiện hữu chưa mất đi với cái hiện đại đã xuất hiện và đang đồng hành cùng xã hội. Ở đây có một số điểm mà chúng ta cùng quan tâm để thấy rõ được vai trò của già làng, trưởng bản trong thực tiễn như: (i) điều hoà hay trung hoà giữa cái cũ và cái mới trong mọi mặt của đời sống xã hội; (ii) là cầu nối giữa cái truyền thống đã mất đi và cái mới đã hình thành; (iii) là điểm chuyển giao giữa thiết chế xã hội truyền thống và thể chế xã hội mới; (iv) thuyết phục cái cũ (hương ước, luật tục) trên cơ sở thực hành hài hoà cái mới (luật pháp);…
Đây là điểm rất khó khăn bởi trở lực lớn nhất chính là thiết chế xã hội truyền thống là cái cũ có nhiều điểm không còn phù hợp với bối cảnh xã hội mới, song nó chưa thể mất đi do ý thức xã hội biến đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội. Cái mới đã xuất hiện và có thể đang tổ chức quản lí xã hội mới, nhưng cái mới buộc phải đồng hành và chấp nhật thực tế sự hiện diện của cái cũ vẫn tồn tại. Khi cái mới và cái cũ đang tồn tại đan xen, xã hội mới đang được quản lí bằng pháp luật thì cái cũ hiện diện với sự tự ý thức truyền thống của nhiều người dân với phong tục, tập quán, luật tục, hương ước,… Do đó, để trung hoà và bắc nhịp chuyển giữa cái cũ sang cái mới chính là những thiết chế xã hội truyền thống như già làng, trưởng bản cùng thiết chế xã hội khác vận dụng uyển chuyển, linh hoạt, hợp tình, hợp lí giữa luật tục, phong tục và luật pháp. Đó là điểm nhấn, nhịp cầu khẳng định vai trò quan trọng của già làng, trưởng bản trong bối cảnh mới.
Sáu là: Giữ gìn môi trường, văn hoá truyền thống để phát triển du lịch
Phải thấy rằng, môi trường tự nhiên, xã hội; văn hoá nông thôn cần được xem là nguồn lực đặc hữu, riêng có của mỗi vùng, miền thậm chí từ đơn vị cư trú ở nông thôn Việt Nam. Vậy, làm thế nào để phát huy được môi trường sinh thái, giá trị văn hoá tộc người để phục vụ lại chính đời sống xã hội của nông thôn Việt Nam? ai là người có thể đảm đương, gương mẫu, dẫn đầu để trờ thành lực lượng tiên phong, lực kéo cho hoạt động này?. Đó chính là những thiết chế xã hội truyền thống như già làng và người đứng đầu các thôn bản - trưởng bản. Đã có rất nhiều ví dụ điển hình cho việc này như: Trưởng bản Vàng A Chỉnh bản biên giới Sin Suối Hồ, xã Sin Suối Hồ, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu; trưởng bản Sình Dỉ Gai người Lô Lô Đen ở thôn Lô Lô Chải, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang; trưởng bản Hà Công Chức, người Thái ở bản Bút, xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hoá;… Họ chính là những minh chứng cho vai trò của già làng, trưởng bản trong thực hiện giữ gìn giá trị văn hoá, bảo vệ môi trường cảnh quan để phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
3. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò già làng và trưởng bản trong bảo vệ môi trường, giữ gìn văn hoá nông thôn
Một là, tiếp tục việc sưu tầm và nghiên cứu về vai trò của già làng và trưởng bản nhằm phát huy tối đa vị trí chức năng của họ trong tình hình mới hiện nay. Thực tế cho thấy, không gian xã hội tộc người luôn biến đổi và bị thu hẹp đến mức dường như đã mất đi trong thực tiễn, bối cảnh văn hoá, sinh kế, đời sống xã hội, khoa học công nghệ biến đổi từng ngày,... Do vậy, nghiên cứu mang tính tổng thể, kết hợp bảo tồn văn hoá với xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Trao đổi những ý tưởng bảo tồn hay, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn để kế thừa cái hay, nét đẹp trong không gian văn hóa của đồng bào ở môi trường biến đổi hiện nay.
Hai là, ngoài hạ tầng truyền thống như: Điện, đường, trường, trạm,... phải chú ý đến hạ tầng mới như: Hạ tầng công nghệ viễn thông, hạ tầng số, hạ tầng không gian, hạ tầng mạng kết nối, hạ tầng xã hội số,... Tập trung giáo dục, đào tạo nâng cao dân trí, lồng ghép việc bảo vệ không gian vốn có của cộng đồng thôn làng các tộc người gắn với vai trò mới của già làng, trưởng bản. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục thuần phong mĩ tục, làm cho mọi người hiểu và tự bảo vệ những giá trị văn hóa tộc người ẩn chứa trong mỗi không gian xã hội của chính tộc người họ đã, đang nắm giữ, đó cũng chính là lực cản ngăn chặn những điểm văn hóa không phù hợp đang thâm nhập vào đời sống mới của đồng bào.
Ba là, cần thiết có hành lang pháp lý đủ mạnh, đủ rộng cho già làng, trưởng bản trong việc quản lí và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa trong bảo vệ môi trường và giữ gìn văn hoá dân tộc, nhất là trong cộng đồng các tộc người thiểu số. Cần có chính sách đãi ngộ phù hợp cho người đang lưu giữ sống động và làm sống dậy những giá trị của văn hóa tộc người trong bảo vệ môi trường và phát huy giá trị văn hoá dân tộc, qua đó thu hút các nguồn lực cho phát triển chính thôn làng của họ thông qua các hoạt động du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh, trải nghiệm.
Bốn là, bảo tồn môi trường sinh hoạt cộng đồng, đây chính là bảo tồn phần hồn của môi trường tồn tại vai trò của già làng, trưởng bản trong xã hội thực tiễn. Các nghi lễ, phong tục, tập quán, lễ hội, trò chơi, sinh hoạt tập thể, hát, múa,… được hình thành và diễn ra từ lao động của con người, từ không gian xã hội mà chính cộng đồng tạo dựng cần được nuôi dưỡng, phát huy giá trị. Qua đó, phát huy vai trò của già làng, trưởng bản với bảo vệ môi trường rừng, môi trường sinh thái của làng, bảo vệ giá trị văn hoá tộc người.
Năm là, củng cố kiến thức, tri thức về bảo vệ môi trường sinh thái và văn hoá nông thôn cho người dân, trong đó, già làng, trưởng bản phải là những hạt nhân học tập và truyền đạt kinh nghiệm cho người dân. Cần thiết xây dựng mô hình điểm, cách làm đột phá về bảo vệ môi trường và giữ gìn phát huy văn hoá nông thôn làm đầu tàu kéo tiêu biểu ở địa phương mà mô hình “Thanh niên giữ gìn vệ sinh môi trường làng bản”; “Ngày chủ nhật xanh”; “Ông bà gương mẫu, cha mẹ nêu gương”;... cần được xem xét. Qua đó, góp phần bảo vệ, giữ gìn môi trường, phát huy giá trị văn hoá tộc người phù hợp với tình hình mới hiện nay.
Kết luận
Già làng, trưởng bản là các thiết chế xã hội đặc trưng ở nước ta, từng khái niệm được gắn với sự tồn tại và phát triển của từng vùng, miền khác nhau song đều có vai trò to lớn trong đời sống xã hội và tâm linh của cộng đồng. Đến nay, mặc dù có những hạn chế tục quyền nhưng tầm ảnh hưởng, phạm vi tác động của các thiết chế này vẫn rất lớn và góp phần thực hiện việc tổ chức, quản lí và chăm lo đời sống của người dân. Mặc dù còn nhiều đánh giá, nhận xét khác nhau và quan điểm chưa thống nhất cùng nhau về nguồn gốc, thời điểm xuất hiện của các thiết chế xã hội này,… song các nhà khoa học đều cho rằng, đến nay, vai trò của già làng, trưởng bản vẫn còn ảnh hưởng và họ được xem là cánh tay nối dài của chính quyền cấp cơ sở trong thực hiện quản lí Nhà nước ở thôn làng, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay khi chúng ta bắt tay thực hiện chính quyền địa phương hai cấp.
Vai trò già làng, trưởng bản bị suy giảm do sự tác động mạnh của khoa học công nghệ, cư trú xen cư, giao thoa và tiếp biến văn hoá của các tộc người,… Song phải khẳng định rằng, sự tồn tại của thiết chế già làng, trưởng bản đến nay vẫn còn quan trọng trong bảo vệ môi trường sinh thái và giữ gìn văn hoá tộc người. Họ là những gương điển hình, gương mẫu thực hiện, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta ở nơi cư trú. Không gian sinh hoạt xã hội của già làng, trưởng bản đến nay vẫn còn được duy trì mặc dù đã bị ảnh hưởng nhiều bởi sự thay đổi của đời sống hiện đại, song, cho dù không gian diễn xướng, không gian tổ chức nghi lễ,… của già làng, trưởng bản đã biến đổi, thu hẹp những giá trị tốt đẹp của nó như: Sống hòa hợp với tự nhiên, chăm lo cho cộng đồng, nêu gương, giữ gìn làng bản sạch sẽ, bảo vệ môi trường sống, môi trường sinh hoạt cộng đồng, giáo dục đạo đức và lối sống tốt đẹp truyền thống của cha ông, đoàn kết cộng đồng, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá tộc người, là khâu kết nối giữa truyền thống và hiện tại, giữa con người thực và thế giới thiêng, là cầu nối quan trọng giữa chính quyền với người dân,… vẫn tồn tại và được phát huy trong thực tế xã hội mới. Qua đó, giúp người dân tự chủ, tự cường để vươn lên, góp phần gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa tộc người trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Hữu Dật (2004), Xác định khái niệm các thuật ngữ Già làng, Trưởng bản, trong Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của già làng, trưởng bản trong việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, Đề tài cấp bộ, Ủy ban Dân tộc.
2. Lưu Hùng (2004), Già làng, Chủ làng, Hội đồng già làng trong xã hội truyền thống các dân tộc Tây Nguyên, trong Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của già làng, trưởng bản trong việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, Đề tài cấp bộ, Ủy ban Dân tộc.
3. Linh Nga Niê Kdam (2007), Già làng Tây Nguyên, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
4. Hoàng Lương (2004), Những người có uy tín, tiêu biểu trong xã hội truyền thống ở vùng Tây Bắc, Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của già làng, trưởng bản trong việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, Đề tài cấp bộ, Ủy ban Dân tộc.
5. Ngô Đức Thịnh (2000), Luật tục với việc phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”, in trong “Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2000), Về các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Chỉ thị số 06/2008/CT - TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ Về phát huy vai trò người có uy tín ở đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
8. Nguyễn Văn Thắng (2024), “Ảnh hưởng thiết chế xã hội truyền thống đến công tác quản lý nhà nước ở chính quyền cấp cơ sở hiện nay: Nhìn từ lý thuyết uy quyền của Max Weber”, trên trang https://lyluanchinhtri.vn, đăng tải ngày 19 tháng 9 năm 2024, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Thắng (2024), “Không gian xã hội tộc người: Bảo tồn và phát huy giá trị trong bối cảnh mới”, Tạp chí Dân tộc học, số 2-2024 (242), tr. 88-97, Hà Nội.
10. Quyết định số 56/2013/QĐ-TTg ngày 7/10/2013 củaThủ tướng Chính phủ Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
11. Quyết định số 2561/QĐ-TTg ngày 31/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Tăng cường vai trò của người có uy tín trong vùng dân tộc thiểu số”.
12. Nguyễn Như ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[1] Phan Hữu Dật (2004), Xác định khái niệm các thuật ngữ Già làng, Trưởng bản, Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của già làng, truởng bản trong việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta, Đề tài Khoa học cấp bộ, năm 2004, tr. 2.
[2] Phan Hữu Dật (2004), Xác định khái niệm… - Tài liệu đã dẫn, tr.2.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXBCTQG, H.2011, tập 6, tr.53.
[4] Sách đã dẫn, tập 7, tr.54.
[5] Đình Tiệp (2021), Phát huy vai trò người có uy tín trong công tác BVMT, xây dựng nông thôn mới: Người góp phần đổi thay bản vùng cao Minh Tiến, trên trang https://nongnghiepmoitruong.vn, đăng tải ngày 30/11/2021, truy nhập ngày 15/5/2025
[6] Bích Hạnh (2024), Điện Biên chăm lo người có uy tín, già làng, trưởng bản, trên trang: https://nhandan.vn, đăng tải ngày 5/11/2024, truy nhập ngày 18/5/2025
[7] Đình Tiệp (2021), Phát huy vai trò người có uy tín, Tlđd.