08/10/2024
TS. Giang Khắc Bình, Học viện Dân tộc
Trên hành trình hội nhập, các dân tộc, các quốc gia trên thế giới không chỉ tích cực tiếp thu những tinh hoa văn hóa, văn minh trên thế giới mà còn phải nỗ lực bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, các giá trị dân tộc, nhân văn của mình. Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển là một nhiệm vụ quan trọng, không chỉ để gìn giữ bản sắc dân tộc mà còn để thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội. Vấn đề đặt ra là cần bảo tồn những giá trị gì và bảo tồn những giá trị đó như thế nào?
Từ khóa: Bảo tồn văn hóa truyền thống, hội nhập quốc tế, giá trị dân tộc, nhân văn.
1. Quan điểm của Đảng về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng vị trí, vai trò của văn hóa, khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển. Trước những thách thức đặt ra của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, càng phải chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc vì sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Những năm qua, các giá trị văn hóa ở nước ta, nhất là các giá trị văn hóa truyền thống, luôn được chú trọng bảo tồn và phát huy.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được đề cập ở văn kiện nhiều kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định quan điểm chỉ đạo “phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần”[1], “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”[2] và đề ra 12 định hướng lớn để phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, trong đó định hướng liên quan tới lĩnh vực phát triển văn hóa có ghi rõ "Xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. Ngày 09 tháng 06 năm 2014, tại Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó nêu rõ quan điểm “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Đó là những định hướng lớn cho sự phát triển con người và dân tộc Việt Nam. Nhờ những định hướng đó, chúng ta có thể xác định được những mục tiêu cơ bản trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời đại mới, đặc biệt là trong bối cảnh cả nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
2. Bảo tồn các giá trị dân tộc, nhân văn
Vì sao trong tiến trình hội nhập cần đặc biệt chú trọng bảo tồn các giá trị dân tộc, nhân văn?
Thứ nhất, văn hóa truyền thống, trong đó hạt nhân là các giá trị dân tộc, nhân văn, là phần cốt lõi tạo nên bản sắc của mỗi dân tộc. Việc bảo tồn các giá trị này giúp duy trì những đặc trưng văn hóa riêng biệt, từ phong tục tập quán đến ngôn ngữ và nghệ thuật, qua đó củng cố lòng tự hào dân tộc và ý thức cộng đồng.
Thứ hai, trong bối cảnh toàn cầu hóa, các giá trị văn hóa truyền thống đang đối mặt với nguy cơ bị mai một hoặc hòa tan vào các nền văn hóa khác. Bảo tồn văn hóa truyền thống không chỉ giúp duy trì sự đa dạng văn hóa mà còn khẳng định vị thế của văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế. Như thế, dù có tích cực hội nhập, văn hóa Việt Nam cũng sẽ không đánh mất bản sắc. Đây là một yếu tố quan trọng, góp phần bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền.
Thứ ba, văn hóa không chỉ là mục tiêu, động lực mà còn là một nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Các yếu tố văn hóa không chỉ mang lại giá trị tinh thần mà còn có thể tạo ra lợi ích kinh tế thông qua du lịch và các hoạt động văn hóa khác. Việc phát huy các giá trị văn hóa truyền thống có thể góp phần tạo ra sinh kế cho cộng đồng và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Thứ tư, việc bảo tồn văn hóa truyền thống cũng đồng nghĩa với việc giáo dục thế hệ trẻ về nguồn cội và lịch sử của dân tộc. Điều này không chỉ giúp họ nhận thức được giá trị của văn hóa mà còn khơi dậy tình yêu và trách nhiệm trong việc gìn giữ di sản văn hóa.
Thứ năm, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cần được thực hiện song song với việc phát triển hiện đại. Điều này đòi hỏi sự chọn lọc và kết hợp giữa những yếu tố tích cực của văn hóa truyền thống với những giá trị mới, nhằm tạo ra một nền văn hóa đa dạng, phong phú và phù hợp với thời đại.
Giá trị dân tộc, nhân văn của Việt Nam là gì?
Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp; nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ. Do vậy, giá trị văn hóa là một hình thức của giá trị xã hội, gắn bó mật thiết với hoạt động sống của con người, sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. Theo quy luật vận động và phát triển xã hội, các giá trị văn hóa không tồn tại một cách cố định, bất biến mà liên tục biến đổi theo sự phát triển của lịch sử, xã hội. Có những giá trị mang tính cốt lõi, tạo nên bản sắc của một dân tộc, trường tồn cùng thời gian nhưng những giá trị không còn phù hợp với xu hướng khách quan của lịch sử sẽ dần mất đi và được thay thế bởi những giá trị mới. Vai trò quản lý của Nhà nước là ở khía cạnh tác động có chủ đích để vừa có thể bảo tồn, gìn giữ những giá trị tốt đẹp, phù hợp với xu thế vận động của nhân loại, đồng thời tiếp thu một cách có chọn lọc các tinh hoa của văn hóa, văn minh nhân loại để thúc đẩy quá trình phát triển bền vững.
Trong tiến trình phát triển, mỗi dân tộc đều xây dựng nên những hệ giá trị tổng quát và những hệ giá trị bộ phận. Hệ giá trị tổng quát bao gồm những giá trị chung nhất, mang tính phổ quát, có vai trò định hướng đối với tư duy và hành động của cả cộng đồng. Hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, với biết bao biến cố thăng trầm đã tạo nên một nền văn hóa Việt Nam đa chiều, thẳm sâu và vô cùng phong phú. Biết bao giá trị văn hóa đã hình thành và đã mất đi nhưng cũng có biết bao giá trị tồn tại vĩnh hằng cùng thời gian lịch sử. GS. Trần Văn Giàu từng nêu 7 giá trị mang tính tổng quát nhất của dân tộc Việt Nam, đó là: Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa[3]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu những đức tính nổi bật của bản sắc Việt Nam, cũng có thể hiểu đó là các giá trị của con người Việt Nam: Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI cũng nhấn mạnh, trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo... Đó có thể coi là những đặc trưng nổi bật của tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc. Ở Việt Nam, tính dân tộc còn mang một đặc điểm nổi bật khác nữa, đó là tính dân tộc luôn gắn liền với tính nhân văn, quyện hòa với tính nhân văn.
Chủ nghĩa nhân văn (humanism) là một trào lưu văn hóa phương tây, ra đời vào khoảng thế kỷ XVI, với tư tưởng chủ đạo là đề cao con người, khẳng định vẻ đẹp của con người, nhằm chống lại tư tưởng phong kiến tập quyền (tập trung quyền lực vào Nhà nước, coi nhẹ giá trị, vẻ đẹp cá nhân). Những tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn được mở rộng thành giá trị nhân văn với những nội dung cơ bản là tư tưởng, quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người, đề cao tình nghĩa, nhân ái, yêu thương con người, tôn trọng nhân phẩm, vẻ đẹp của con người và tự nhiên.
Về cơ bản, dân tộc và nhân văn là những giá trị đặc trưng cho văn hóa Việt Nam vốn trọng tình cảm gia đình, làng xóm, cộng đồng, thương yêu con người, đề cao tình nghĩa, coi trọng tự nhiên. Đó còn là tinh thần vượt khó, là sức sống mãnh liệt trong mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, là ý thức đấu tranh với kẻ thù để giành quyền được sống, quyền tự do. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tình cảm cộng đồng, tình yêu quê hương đất nước ấy đã được kết hợp, được phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, từ đó giúp chúng ta lập nên những chiến công "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" (thơ Tố Hữu). Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thị trường, dưới áp lực của đời sống kinh tế, nhiều giá trị dân tộc và nhân văn đang dần phai nhạt. Nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc đang dần mất đi, nhiều yếu tố văn hóa độc hại xuất hiện, lây lan trong các cộng đồng. Lối sống thực dụng, coi trọng vật chất, coi nhẹ các giá trị truyền thống đang làm cho giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc biến đổi nhanh chóng theo hướng tiêu cực, trong khi quá trình tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại diễn ra chậm chạp và thiếu tính định hướng.
Bảo tồn các giá trị văn hóa, nhân văn như thế nào?
(1) Nâng cao nhận thức về văn hóa. Nhận thức về văn hóa là những nhận thức về vai trò, ý nghĩa của văn hóa trong đời sống xã hội và cộng đồng, bao gồm cả nhận thức của chủ thể văn hóa và của cán bộ, công chức, với vai trò là đại diện cơ quan quản lý nhà nước, có nhiệm vụ xây dựng và thực thi các chính sách phát triển văn hóa. Cán bộ quản lý văn hóa có hiểu đúng thì các chính sách mới thiết thực và hiệu quả. Người dân có nhận thức đầy đủ thì mới có thể phát huy được vai trò chủ thể của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Các chính sách cần tạo động lực để người dân tích cực bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa. Cán bộ làm công tác văn hóa không chỉ cần hiểu sâu sắc về văn hóa mà còn phải có kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ để tổ chức thực hiện chính sách sao cho hiệu quả.
Việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia bảo tồn và phát triển văn hóa cũng không nên chỉ tuyên truyền chung chung mà cần phải giúp người dân xác định rõ: Trong các giá trị văn hóa truyền thống, những giá trị cốt lõi như tình yêu quê hương đất nước, tình cảm cộng đồng, sự gắn bó, chia sẻ, tinh thần tôn trọng tự nhiên… cần phải được gìn giữ, duy trì. Ngược lại, những giá trị đã lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống hiện nay thì cần loại bỏ để có thể hội nhập và phát triển. Trên phương diện tiếp thu cái mới cũng cần nhận thức rõ: Không phải cái mới nào cũng mang nghĩa tích cực. Những thành tựu khoa học công nghệ mới có ý nghĩa với sự phát triển bền vững cần được tiếp thu và vận dụng nhưng những công nghệ lạc hậu gây tổn hại đến môi trường thì cần được thay thế. Bên cạnh đó có nhiều yếu tố văn hóa độc hại, đi ngược với thuần phong, mỹ tục của dân tộc thì cần phải kiên quyết đấu tranh, loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Đó không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng. Cần tạo ra sức đề kháng tốt cho các cộng đồng để có thể chống lại những tác động tiêu cực từ bên ngoài đang lợi dụng quá trình hội nhập để sẵn sàng gây tổn hại đến văn hóa dân tộc.
(2) Gắn văn hóa với phát triển. Văn hóa là một thành tố trong cấu trúc xã hội, có mối liên hệ mật thiết, hữu cơ với các thành tố xã hội khác. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, có thể tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế đến an ninh quốc phòng. Bởi vậy, không thể tách rời văn hóa ra khỏi cấu trúc xã hội chung, đặc biệt là trong mối quan hệ với phát triển kinh tế. Văn hóa và kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ; văn hóa không chỉ tạo ra giá trị tinh thần, thúc đẩy quá trình sáng tạo hay lao động sản xuất mà còn góp phần vào việc phát triển kinh tế thông qua các hoạt động như du lịch, nghệ thuật và công nghiệp sáng tạo. Hoạt động kinh tế cũng hỗ trợ cho sự phát triển của văn hóa bằng cách cung cấp nguồn lực tài chính và cơ sở hạ tầng. Việc gắn văn hóa với kinh tế sẽ chuyển hóa các giá trị tinh thần thành các giá trị vật chất, từ đó nâng cao đời sống nhân dân, tạo động lực để phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, việc đầu tư hợp lý cho các ngành công nghiệp văn hóa sẽ tạo ra cơ hội việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên phát triển các ngành này để khai thác tối đa tiềm năng văn hóa của các dân tộc, tộc người, cũng là tiềm năng văn hóa quốc gia.
3. Kết luận
Giá trị dân tộc, nhân văn là những giá trị to lớn trong nền văn hóa của các dân tộc và của cả quốc gia. Những giá trị đó đã được tạo lập, được vun đắp trong lịch sử dân tộc và đã góp phần định hình nền văn hóa Việt Nam hiện nay. Không chỉ là cội nguồn của sức mạnh dân tộc mà lịch sử đã chứng minh qua bốn nghìn năm lịch sử, những giá trị ấy còn có tiềm năng to lớn trong việc thúc đẩy quá trình hội nhập, tạo động lực để phát triển mạnh mẽ về kinh tế, song song với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Tuy nhiên, để những tiềm năm to lớn ấy trở thành lợi thế phát triển, không chỉ cần "sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị" mà trên hết, cần sựu chung tay của cả cộng đồng, sự cố gắng, nỗ lực, tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi người dân, chủ thể đích thực của những giá trị dân tộc, nhân văn ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Đảng Công sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập I, tr. 110.
(2) Đảng Công sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tlđd, tr. 115-116.
(3) Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.