27/11/2025
ThS. Dương Hiền Dịu, Học viện Dân tộc
Tóm tắt: Công tác đào tạo nguồn nhân lực (NNL) chất lượng cao dân tộc thiểu số (DTTS) trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Theo đó, đội ngũ này đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng nên đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) ở vùng DTTS. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém đòi hỏi cần có những giải pháp căn cơ, đồng bộ trong công tác đào tạo NNL chất lượng cao DTTS nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Đào tạo, bồi dưỡng; nguồn nhân lực chất lượng cao; dân tộc thiểu số; thực trạng và những vấn đề đặt ra.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, khi nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức thì NNL chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong hệ thống các nguồn lực nên được xem là yếu tố quyết định năng suất, chất lượng cho sự phát triển. Theo đó, một quốc gia cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó thì khó đạt được sự phát triển như mong muốn. Vì vậy, đòi hỏi cần có những giải pháp đồng bộ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL chất lượng cao DTTS hiện nay.
2. Tổng quan nghiên cứu
Trong những năm qua, nghiên cứu về NNL chất lượng cao luôn thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà quản lý, liên quan đến bài viết có thể kể đến các công trình được công bố, đó là:
Phát triển NNL chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đó là những nội dung được nêu ra trong bài viết “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng” của tác giả Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh đăng trên Tạp chí Cộng sản tháng 4/2023. Để công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL chất lượng cao được đẩy mạnh hơn nữa, các tác giả đã đưa ra bốn giải pháp trong việc đào tạo, bồi dưỡng.
“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS và miền núi” là nội dung bài viết của tác giả Hồng Phượng đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội tháng 6/2021. Trong đó, khẳng định việc đào tạo NNL chất lượng cao vùng đồng bào DTTS có ý nghĩa quyết định, là nhân tố cơ bản để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KT-XH của vùng. Từ đó, tác giả đã đề ra một số giải pháp phù hợp với công tác đào tạo NNL chất lượng cao DTTS như: Kết hợp giữa đào tạo thực nghiệm tại chỗ và đào tạo nâng cao tại các cơ sở giáo dục đại học và các viện nghiên cứu; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; xây dựng tiêu chí chất lượng cao cho từng vị trí quản lý; đào tạo nghề cho người lao động; thu hút nhân tài làm hạt nhân nòng cốt; cải tiến phương thức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao...
Trong bài viết “Chính sách phát triển nhân lực dân tộc thiểu số vùng Trung Trung bộ” đăng trên Tạp chí Công thương, tháng 5/2021 của Nguyễn Lương Định cho rằng, việc còn mang nặng tính tư hữu và tác phong của nền kinh tế tiểu nông, tự cấp, tự túc cùng với việc bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới, ít chịu khó suy nghĩ độc lập, thích làm theo kinh nghiệm hơn là sáng tạo, đã ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận không nhỏ người DTTS. Bên cạnh đó, việc chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng, tinh thần và thái độ làm việc của nền văn hóa công nghiệp của đồng bào các dân tộc được xem là rào cản đối với việc phát triển KT-XH ở vùng DTTS. Vì vậy, cần có chính sách phù hợp về đào tạo NNL chất lượng cao cả về trí lực, thể lực và tâm lực để đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng DTTS.
Nguồn lực con người là yếu tố quyết định, đây là nguồn lực vô tận, phong phú, vô giá, quý báu nhất, duy nhất sáng tạo và có khả năng sinh ra giá trị lớn trong quá trình sản xuất xã hội. Do đó, chú trọng phát triển nguồn lực con người chính là bảo đảm cho sự phát triển và phồn vinh của đất nước là nghiên cứu của Lê Tiến Dũng trong “Nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra” đăng trên Tạp chí Công thương, tháng 6/2024.
Bùi Văn Tưởng với bài viết “Phát triển nguồn nhân lực của các tỉnh Tây Bắc đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn hiện nay” đăng trên Tạp chí Giáo dục lý luận, tháng 5/2022 cho rằng, nâng cao chất lượng NNL nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đang là một vấn đề cấp thiết cần được chú ý quan tâm. Theo đó, nghiên cứu đã đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp để phát triển NNL Tây Bắc hiện nay, trong đó, cần có sự quyết tâm và đồng lòng của các cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác đào tạo NNL chất lượng cao để khu vực Tây Bắc phát triển mạnh, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...
Qua các nghiên cứu trên có thể thấy, việc đào tạo NNL chất lượng cao DTTS được nhìn nhận, đánh giá với nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về “Công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế: Thực trạng và những vấn đề đặt ra” thì chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể. Theo đó, bài viết sẽ đi sâu phân tích, đánh giá về thực trạng công tác đào tạo NNL chất lượng cao DTTS và nêu ra một số vấn đề cần thực hiện.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận, logíc, thống kê, phân tích số liệu từ báo cáo của các cơ quan ban, ngành, Tổng cục thống kê là những phương pháp chính trong bài viết. Qua đó, sẽ nêu ra vấn đề về công tác đào tạo NNL chất lượng cao DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của vùng trước bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng, yêu cầu phát triển NNL, đặc biệt là NNL chất lượng cao, ngày càng trở nên cấp thiết. Đây được xem là điều kiện tiên quyết để rút ngắn khoảng cách phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm tăng trưởng bền vững. Nhận thức rõ vai trò chiến lược của NNL chất lượng cao đối với tiến trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhất quán, trong đó chú trọng đào tạo NNL người DTTS.
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Phát triển NNL, đặc biệt NNL chất lượng cao, là một trong ba đột phá chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với việc đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển khoa học - công nghệ. Đại hội XII tiếp tục nhấn mạnh phát triển kinh tế tri thức, coi khoa học - công nghệ và NNL chất lượng cao là động lực chủ yếu của tăng trưởng trong giai đoạn mới; đồng thời yêu cầu xây dựng chiến lược phát triển NNL theo ngành, lĩnh vực, gắn với đào tạo, đào tạo lại và nâng cao tính chuyên nghiệp, kỹ năng thực hành.
Đại hội XIII kế thừa và phát triển các định hướng trên khi xác định phát triển NNL chất lượng cao, đặc biệt trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý và các ngành then chốt, là một trong ba đột phá chiến lược. Đại hội cũng đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, hướng tới xây dựng con người có đạo đức, kỷ luật, trách nhiệm xã hội, có kỹ năng số, tư duy sáng tạo và năng lực hội nhập quốc tế. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII (2022), Đảng tiếp tục xác định việc đào tạo NNL chất lượng cao DTTS là nhiệm vụ cấp thiết nhằm phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030 và tầm nhìn 2045.
Quán triệt các quan điểm này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cụ thể, trong đó có Nghị quyết 52/NQ-CP năm 2016 về phát triển NNL DTTS, Quyết định 775/QĐ-TTg năm 2018 về giáo dục vùng DTTS, Quyết định 1719/QĐ-TTg năm 2021 về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng DTTS và miền núi, hay Nghị quyết 10/NQ-CP năm 2022 về Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030. Các văn bản này đều thống nhất mục tiêu ưu tiên đào tạo NNL chất lượng cao DTTS, coi đó là yếu tố quyết định cho phát triển bền vững vùng DTTS trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
4.2. Kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân
4.2.1. Kết quả đạt được
Thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, công tác đào tạo NNL chất lượng cao vùng DTTS đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống cơ sở giáo dục vùng DTTS tiếp tục được củng cố và mở rộng, tạo điều kiện nâng cao dân trí và tăng cơ hội học tập cho con em các DTTS. Đến nay, gần như toàn bộ các xã vùng DTTS đã có trường tiểu học, trung học cơ sở và mầm non; mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú phát triển mạnh với 294 trường và hơn 80.000 học sinh; bốn trường dự bị đại học đào tạo trên 3.000 học sinh mỗi năm. Nhờ hệ thống trường lớp phát triển, tỷ lệ học sinh DTTS theo học trung cấp, cao đẳng, đại học có xu hướng tăng lên; trong đó, tỷ lệ học đại học trở lên cao hơn so với các bậc đào tạo khác, phản ánh hiệu quả của việc mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục đối với vùng DTTS.
Việc làm và thu nhập của lao động DTTS có trình độ chuyên môn cũng được cải thiện đáng kể. Số liệu thống kê cho thấy lao động DTTS làm việc ở nhóm nghề có trình độ cao như lãnh đạo, chuyên môn bậc cao, chuyên môn bậc trung có mức thu nhập bình quân/tháng vượt trội so với các nhóm nghề giản đơn. Điều này cho thấy cơ hội việc làm và mức sống được nâng cao rõ rệt khi người DTTS được đào tạo bài bản. Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2016-2020, hơn 8.000 người DTTS được đào tạo nghề ở các cấp trình độ; 412 nghìn lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề; hơn 4.620 lượt lao động tại các huyện nghèo được hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài. Những con số này cho thấy nỗ lực lớn của Nhà nước trong việc mở rộng cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động DTTS.
4.2.2. Hạn chế
Mặc dù đạt nhiều kết quả tích cực, công tác đào tạo NNL chất lượng cao DTTS vẫn bộc lộ một số hạn chế. Tỷ lệ lao động DTTS qua đào tạo còn thấp so với mặt bằng chung cả nước, trong khi nhu cầu nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS rất lớn. Kinh phí đào tạo tuy được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.
Chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, thiếu nội dung gắn với thực tiễn sản xuất, kinh doanh; đội ngũ giảng viên chưa đồng đều, cơ sở đào tạo chưa có sự thống nhất và chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc. Tỷ lệ lao động DTTS học nghề trung cấp, cao đẳng còn rất thấp; đa số chỉ tham gia các khóa học ngắn hạn dưới ba tháng, chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, tình trạng đào tạo không gắn với nhu cầu sử dụng diễn ra phổ biến, dẫn đến việc nhiều học viên không tìm được việc làm đúng chuyên môn hoặc không có điều kiện áp dụng kiến thức mới vào thực tiễn.
Ngoài ra, chính sách dành cho giáo viên dạy nghề vùng DTTS còn thiếu; các địa phương chưa chú trọng đào tạo đội ngũ giáo viên là người DTTS, trong khi đây là lực lượng có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải tri thức phù hợp với đặc thù văn hóa và ngôn ngữ của học viên. Các chương trình đào tạo nghề tại nhiều cơ sở vẫn chưa gắn chặt với nhu cầu của thị trường lao động, công tác tư vấn, định hướng nghề nghiệp và hỗ trợ tìm việc làm còn hạn chế.
4.2.3. Nguyên nhân
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Về phía quản lý nhà nước, chính sách phát triển NNL DTTS mặc dù đã được quan tâm nhưng vẫn chưa phản ánh đầy đủ tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc; nhiều nơi áp dụng chính sách còn cứng nhắc, rập khuôn. Hệ thống đầu tư cho giáo dục và đào tạo vùng DTTS chưa mang tính chiến lược dài hạn; công tác hướng dẫn, triển khai chính sách còn chậm, thiếu đồng bộ; hoạt động giám sát chưa thực sự hiệu quả. Việc tổ chức lớp học ở vùng DTTS gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý hiểm trở, giao thông hạn chế, mô hình lớp học chưa phù hợp với tập quán lao động và sinh hoạt của người dân. Một số địa phương chưa lồng ghép hiệu quả đào tạo NNL với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến thiếu liên kết giữa đào tạo và nhu cầu sử dụng.
Từ phía người dân, trình độ học vấn không đồng đều và hạn chế khả năng tiếp thu khiến nhiều người e ngại tham gia học nghề. Tâm lý lo ngại mất thu nhập, tập quán sống quần cư gắn với sinh kế truyền thống, sự bảo thủ trong tư duy sản xuất khiến người DTTS ít mạnh dạn thay đổi nghề nghiệp. Một bộ phận người dân còn tâm lý ỷ lại vào chính sách hỗ trợ, thiếu động lực tự vươn lên. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đào tạo và khả năng phát triển NNL chất lượng cao ở vùng DTTS.
5. Thảo luận
Để phát huy những kết quả đạt được nhằm khắc phục những hạn chế yếu kém trong công tác đào tạo NNL chất lượng cao DTTS trong thời gian tới các ngành, các cấp và các địa phương có đông đồng bào DTTS cần triển khai thực hiện một số nội dung sau:
Một là, xây dựng con người của các DTTS phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm đối với công việc. Tiến hành thực hiện tốt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030” nhằm nâng cao chất lượng các chính sách về dinh dưỡng, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe và tầm vóc đối với người DTTS; Theo đó, tiếp tục giữ vững phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ học vấn tạo tiền đề cho phát triển NNL chất lượng cao các DTTS.
Hai là, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo vùng DTTS. Trên cơ sở chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo thì mới phát triển được NNL chất lượng cao DTTS có sức khỏe, có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp cao, có phẩm chất xã hội phù hợp. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đồng thời, có cơ chế, chính sách ưu tiên đối với các trường chuyên biệt trong đào tạo NNL chất lượng cao DTTS như Học viện Dân tộc.
Ba là, phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vùng DTTS. Theo đó, cần tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường trên cơ sở huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và cá nhân. Hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ đối với vùng DTTS. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, nhất là khoa học và công nghệ cao, gắn hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời sống KT - XH vùng DTTS.
Bốn là, xác lập các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động người DTTS phù hợp cho sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, sử dụng và quản lý lao động phù hợp với sự phát triển. Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động. Có chính sách lương, thưởng phù hợp, đặc biệt là đối với nhân tài, các chuyên gia đầu ngành, kỹ thuật viên có tay nghề cao... người DTTS. Nghiên cứu thành lập và sử dụng có hiệu quả các quỹ nhằm khuyến khích nhân tài để họ phát triển, cống hiến, sáng tạo. Có chính sách hợp lý, chuyển lao động nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp. Thực hiện mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh ở vùng DTTS.
Kết luận
Có thể thấy, đào tạo NNL chất lượng cao DTTS có ý nghĩa quyết định, là nhân tố cơ bản để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KT - XH vùng đồng bào DTTS. Bởi, NNL chất lượng cao đang chi phối và kéo theo hàng loạt vấn đề liên quan đến sự phát triển của các DTTS, do đó cần sớm tìm ra kế hoạch dài hạn để nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực các DTTS. Vì vậy, cần tập trung thực hiện một số giải pháp đào tạo NNL chất lượng cao cho vùng đồng bào DTTS như: Lựa chọn mô hình đào tạo NNL chất lượng cao cho vùng đồng bào DTTS phù hợp kết hợp giữa đào tạo thực nghiệm tại chỗ và đào tạo nâng cao tại các cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thông qua việc thường xuyên cập nhật kiến thức. Kịp thời có chính sách hỗ trợ đối với giáo viên từ miền xuôi lên miền núi dạy học và giáo viên là người DTTS. Cải tiến phương thức đào tạo NNL chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của vùng DTTS trước bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Nghị quyết số 52/NQ-CP, ngày 15/6/2016 của Chính phủ về “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các DTTS giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030”.
6. Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 1811/2019, của Quốc hội về “Phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030”.
7. Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I; từ năm 2021 đến năm 2025”.
8. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê về tình hình kinh tế - xã hội năm 2023, https://www.gso.gov.vn.
9. Ủy ban Dân tộc, Báo cáo số 855/BC-UBDT ngày 03/6/2022 của Ủy ban Dân tộc “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc”.