26/11/2025
TS. Trần Thùy Dương, Học viện Dân tộc
Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu về vai trò của văn hóa - văn hóa ẩm thực trong phát triển du lịch; giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng, thực trạng và một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng gắn với phát triển du lịch ở tỉnh Cao Bằng hiện nay.
Từ khóa: Ẩm thực dân tộc; phát triển du lịch bền vững.
1. Đặt vấn đề
Tỉnh Cao Bằng, nơi có hơn 70% dân số là người Tày - Nùng, nơi đây sở hữu tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hóa - ẩm thực. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số nói chung và các dân tộc thiểu số ở tỉnh Cao Bằng đang đứng trước nguy cơ mai một. Việc bảo tồn, khai thác các giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa ẩm thực mang ý nghĩa hết sức quan trọng bởi không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc mà còn tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội gắn với phát triển du lịch bền vững.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình hội nhập, giao thoa giữa các nền văn hóa đã và đang tác động mạnh mẽ tới sự biến đổi trong đời sống văn hóa - xã hội các tộc người ở Việt Nam và nhóm tộc người Tày, Nùng ở Cao Bằng trước bối cảnh nhiều bản sắc văn hóa các dân tộc đang bị mai một, thậm chí được thay thế bởi bản sắc văn hóa của tộc người khác. Việc bảo tồn, khai thác giá trị văn hóa truyền thống, nhất là văn hóa ẩm thực Tày - Nùng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống văn hóa - xã hội của người dân. Một mặt, giữ được giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp là vốn có, tượng trưng cho dân tộc ấy; mặt khác, muốn bảo tồn chúng ta phải biết khai thác và phát huy tối đa giá trị văn hóa để biến thành nguồn lực quan trọng trong phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh Cao Bằng, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho chính đồng bào các dân tộc nơi đây.
2. Vai trò của văn hóa - văn hóa ẩm thực trong phát triển du lịch
Trong xu thế phát triển đa dạng về nhu cầu du lịch, văn hóa ẩm thực không chỉ đóng vai trò phục vụ nhu cầu thiết yếu mỗi ngày của con người mà trở thành mục đích của các chuyến du lịch. Thực tế, nhiều doanh nghiệp lữ hành trên thế giới và ngay tại Việt Nam thời gian gần đây đã nở rộ những chương trình du lịch ẩm thực để phục vụ du khách trong và ngoài nước về nhu cầu tìm hiểu văn hóa kết hợp với thưởng thức hương vị ẩm thực truyền thống đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc địa phương tại các điểm du lịch đã và đang mang lại giá trị kinh tế cao. Chính vì vậy, những năm gần đây văn hoá ẩm thực trở thành một trong những yếu tố được khai thác, sử dụng trong hoạt động xúc tiến thu hút du khách, là yếu tố quan trọng để phát triển du lịch. Vấn đề khai thác giá trị văn hóa ẩm thực gắn với phát triển du lịch được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá…”[1] theo đó toàn bộ các giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra bao gồm cả văn hóa ẩm thực, ban đầu phục vụ nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của con người, về sau khi xã hội phát triển giá trị văn hóa ẩm thực không chỉ là thức ăn đơn thuần của con người để duy trì sự sống mà ở mỗi món ăn còn thể hiện văn hóa tộc người, hay nói rộng hơn là của mỗi quốc gia.
Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững đất nước”, cùng với đó Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần vô cùng to lớn, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy phát triển xã hội bền vững. Đồng thời khẳng định, phát triển văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết đầu tiên trong thời kỳ đổi mới mà Đảng, Nhà nước ta ban hành đã cho thấy vai trò quan trọng của văn hóa trong đời sống tinh thần của xã hội. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ chính trị khóa XII “Về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn”, nhấn mạnh quan điểm phát triển du lịch bền vững; bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên...; đồng thời, xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển du lịch là tập trung phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa, tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao[2]. Công văn số 677/HD-BVHTTDL ngày 03/03/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về thực hiện Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch” thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Trong Văn kiện Đại hội XIII, chủ trương của Đảng về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa cho phát triển du lịch tiếp tục khẳng định: “Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời gìn giữ tài nguyên văn hóa cho thế hệ mai sau”[3]. Chủ trương về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số tiếp tục được nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, đó là: “Phát huy các lợi thế về văn hóa dân tộc đặc sắc, đa dạng và tiềm năng phát triển du lịch, dịch vụ…”[4]
Có thể thấy trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khai thác, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong phát triển bền vững, coi văn hóa là một trong những sức mạnh nội sinh và được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị xã hội[5]. Ngày 11/12/2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 3767/QĐ-BVHTTDL về phê duyệt Đề án xây dựng thương hiệu quốc gia về du lịch văn hóa, trong đó khẳng định thương hiệu du lịch văn hóa Việt Nam được định vị dựa trên giá trị văn hóa đặc sắc, tập trung vào giá trị di sản và giá trị văn hóa ẩm thực.
Với tầm quan trọng đó, khai thác giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống để biến thành mô hình du lịch ẩm thực hiện đang được xem là loại hình du lịch phát triển khá nhanh và thành công, du khách trong nước và quốc tế tăng nhanh chóng, đã mang lại nhiều lợi ích phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho cư dân địa phương. Khai thác giá trị văn hóa ẩm thực kết hợp với đa dạng các loại hình du lịch khác nhau là mô hình được thực hiện ở các vùng miền núi nơi có các tộc người thiểu số sinh sống, trong đó có dân tộc Tày - Nùng ở tỉnh Cao Bằng.
3. Giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng trong phát triển du lịch
Văn hóa ẩm thực nơi đây là sự kết hợp đan xen, hài hòa giữa ẩm thực dân tộc truyền thống, ẩm thực đường phố và ẩm thực các vùng, miền. Ẩm thực dân tộc là bức tranh đa màu sắc, thể hiện nét riêng về tín ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng bào vùng cao. Những sản vật gắn liền với điều kiện tự nhiên, đời sống, sản xuất và tính chất mùa vụ.
Văn hoá ẩm thực của người Tày - Nùng là một phần quan trọng trong di sản văn hóa dân tộc Việt Nam. Người Tày - Nùng sinh sống chủ yếu ở các vùng núi cao phía Bắc, đặc biệt là các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Bắc Kạn. Văn hoá ẩm thực của họ thể hiện sự tinh tế, khéo léo và ẩn chứa giá trị nghệ thuật, phản ánh cuộc sống và đặc điểm địa lý của vùng đất này.
Người Tày - Nùng có nhiều món ăn truyền thống độc đáo và phong phú. Một trong những món ăn nổi tiếng là "thắng cố" một loại súp gồm các mảnh thịt lợn, gan, lòng, ruột, cùi và xương luộc kỹ cùng với gia vị, "thắng cố" thường được dùng trong các bữa tiệc đám cưới hay lễ hội. Ngoài ra, một món ăn khác là "cá nục nướng" cá được tẩm ướp gia vị và nướng lên than hồng, mang lại hương vị đậm đà.
Ngoài các món ăn chính, người Tày - Nùng cũng có các món ăn tráng miệng đặc biệt. Một trong số đó là "bánh chưng" bánh được làm từ gạo nếp, đậu xanh và mỡ lợn. Bánh chưng thường được làm trong các dịp lễ tết quan trọng như Tết Nguyên đán.
Ngoài ra, người Tày - Nùng còn có phương pháp chế biến đặc biệt như hấp, luộc, nướng, xông khói... để tạo nên những món ăn độc đáo. Họ cũng rất giỏi trong việc sử dụng các loại gia vị và thảo dược tự nhiên để gia tăng hương vị và giá trị dinh dưỡng cho món ăn.
Văn hoá ẩm thực của người Tày - Nùng ở Cao Bằng cũng mang những đặc trưng riêng, phản ánh cuộc sống và vùng đất này. Một số giá trị văn hoá ẩm thực của người Tày - Nùng:
Đa dạng và đặc sắc: Người Tày - Nùng có nhiều món ăn ngon, đa dạng và đặc sắc như thịt nướng, cá rô ti, canh măng, xôi nếp than, nấm linh chi, đậu nành năm rom, bánh giầy, bánh chưng,... Mỗi món ăn mang trong mình một câu chuyện và giá trị văn hoá độc đáo.
Nguyên liệu tự nhiên: Người Tày - Nùng thường sử dụng các loại nguyên liệu tự nhiên từ núi rừng như thảo dược, rau cỏ, nấm, hạt, cá, thịt gia cầm và các loại cây trái. Đây là một điểm đặc biệt thu hút du khách yêu thích ẩm thực tự nhiên và sạch.
Phương pháp chế biến truyền thống: Người Tày - Nùng có những phương pháp chế biến và nấu nướng truyền thống độc đáo, tạo nên hương vị đặc trưng của các món ăn. Gia vị tự nhiên như lá chuối, lá đinh hương, gừng, ngò gai và mắc khén được sử dụng để tăng thêm hương vị cho các món ăn.
Di sản văn hoá: Thông qua ẩm thực, người Tày - Nùng truyền tải và bảo tồn di sản văn hoá của dân tộc, từ cách chế biến, lễ nghi ăn uống đến hình ảnh mâm cỗ truyền thống trong các dịp lễ tết. Du khách có thể tìm hiểu thêm về lịch sử, truyền thống và phong tục của người Tày - Nùng thông qua việc khám phá ẩm thực của họ.
4. Thực trạng khai thác giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng gắn với phát triển du lịch ở tỉnh Cao Bằng hiện nay
Cao Bằng là tỉnh miền núi biên giới đông bắc của Tổ quốc, có vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh, là phên dậu của cả nước; bên cạnh đó, Cao Bằng còn là tỉnh có núi, rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ, nguyên sinh, sở hữu tài nguyên du lịch phong phú, riêng có, với hơn 200 di tích, trong đó 98 di tích được xếp hạng (có 03 di tích quốc gia đặc biệt: Pác Bó, Rừng Trần Hưng Đạo, Địa điểm chiến thắng Biên giới năm 1950; 25 di tích cấp quốc gia; 68 di tích cấp tỉnh); 2 bảo vật quốc gia; 4 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận 01 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại,... Bên cạnh đó, Cao Bằng có trên 2.000 di sản văn hóa phi vật thể; trong đó tiếng nói, chữ viết có 6 di sản, ngữ văn dân gian có 150 di sản, tập quán xã hội và tín ngưỡng có 745 di sản, lễ hội truyền thống có 200 di sản, nghề thủ công truyền thống có 112 di sản, tri thức dân gian có 487 di sản, nghệ thuật trình diễn dân gian 300 di sản... [6]
Tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm 95,3% dân số toàn tỉnh, trong đó, dân tộc Tày - Nùng chiếm tỷ lệ cao nhất hơn 70% dân số toàn tỉnh (Tày 40,83%, Nùng 29,81%)[7] tạo nên nền văn hóa đặc trưng đậm nét của tỉnh Cao Bằng. Cùng với các dân tộc Mông, Dao, Sán Chỉ, Lô Lô, mỗi dân tộc có lịch sử phát triển riêng, có ngôn ngữ riêng, có những hoạt động kinh tế, đặc trưng văn hóa độc đáo riêng biệt, tạo nên bức tranh văn hóa dân tộc đa màu sắc, tạo ra nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển nhiều loại hình du lịch được yêu thích hiện nay như: Du lịch xanh, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng,… Trong đó, du lịch ẩm thực hiện nay đang là một trong những nguồn lực quan trọng, tạo nên sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.
Với những lợi thế trên, trong những năm qua tỉnh Cao Bằng đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện nội dung đột phá chiến lược đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có thêm thuận lợi bởi được kế thừa, phát huy kết quả đạt được từ giai đoạn trước cũng như các cơ chế, chính sách phù hợp, tạo động lực cho du lịch phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, xác định: Từng bước đưa du lịch Cao Bằng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng tỉnh Cao Bằng trở thành trung tâm du lịch của các tỉnh khu vực trung du, miền núi phía bắc. Tỉnh Cao Bằng đã cụ thể hóa Nghị quyết thành hành động, thể hiện rõ nét nhất trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025, trong đó xác định du lịch - dịch vụ bền vững là 1 trong 3 đột phá chiến lược. Ngày 29/3/2022, Ban Chỉ đạo thực hiện các nội dung đột phá, ban hành Kế hoạch số 11-KH/BCĐ thực hiện nội dung đột phá về phát triển du lịch - dịch vụ bền vững giai đoạn 2022 - 2025, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội về vị trí, vai trò và ý nghĩa của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tiềm năng du lịch
|
Chỉ tiêu |
Số liệu (2024) |
|
Tỷ lệ dân số dân tộc thiểu số |
95,3% (Tày - Nùng chiếm hơn 70%) |
|
Di sản văn hóa phi vật thể |
> 2.000 |
|
Di tích được xếp hạng |
98 (03 quốc gia đặc biệt, 25 quốc gia) |
|
Du khách đến Cao Bằng |
~1,2 triệu lượt (tăng 18% so với 2023) |
So với nhiều địa phương, Cao Bằng có rất nhiều lợi thế để phát triển du lịch từ những giá trị văn hóa đặc sắc trong đó có văn hóa ẩm thực Tày - Nùng, đây là nguồn lực quan trọng, không những có thể tạo nên một loại hình du lịch ẩm thực mà còn là chất liệu chính kết hợp với các loại hình du lịch khác tạo nên sức hút, hấp dẫn đối với khách du lịch. Tuy nhiên, làm thể nào để khai các giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng một cách hiệu quả trong phát triển du lịch thì cần có hệ thống những giải pháp đồng bộ, đạt được hiệu quả cao trong những giai đoạn tiếp theo.
5. Một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng gắn với phát triển du lịch ở tỉnh Cao Bằng hiện nay
Một là, nghiên cứu và bảo tồn: Đầu tiên, cần tiến hành nghiên cứu sâu về ẩm thực của người Tày - Nùng, từ các món ăn truyền thống đến phương pháp nấu nướng và nguyên liệu sử dụng. Qua đó, có thể xác định những món ăn đặc trưng, giá trị văn hóa và lịch sử của chúng. Đồng thời, việc bảo tồn và ghi nhận kiến thức cũng là một yếu tố quan trọng để duy trì và phát triển di sản ẩm thực này.
Hai là, phát triển sản phẩm ẩm thực: Dựa trên kiến thức đã thu thập được, có thể tạo ra các sản phẩm ẩm thực độc đáo và chất lượng cao từ nguyên liệu và phong cách nấu nướng của người Tày - Nùng. Việc thúc đẩy các nhà hàng, quán ăn, nhà nghỉ, homestay hay các nơi du lịch địa phương làm việc với người dân để cung cấp các món ăn truyền thống sẽ giúp tăng thu nhập cho cả người dân và doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có thể xây dựng các khu ẩm thực Tày - Nùng trong các chợ, du khách không mất công tìm kiếm, di chuyển mà có thể thưởng thức ẩm thực khác nhau, tạo thành một chuỗi các món ăn, thức uống truyền thống, tạo nên sự đa dạng và kiểm soát được về giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ba là, xây dựng hình ảnh thương hiệu: Qua việc quảng bá và xây dựng hình ảnh thương hiệu cho văn hoá ẩm thực của người Tày - Nùng, Cao Bằng có thể thu hút du khách từ cả trong và ngoài nước. Sử dụng các phương tiện truyền thông, như website, mạng xã hội, video quảng cáo hoặc tổ chức các sự kiện liên quan đến ẩm thực để thúc đẩy sự quan tâm và tìm hiểu về văn hoá này.
Bốn là, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Để duy trì và phát triển kinh tế liên quan đến văn hoá ẩm thực, cần đầu tư vào đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Điều này có thể bao gồm việc tổ chức các khóa huấn luyện, đào tạo nghề và trao đổi kinh nghiệm giữa các đơn vị, nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng cho người làm công việc liên quan đến ẩm thực của người Tày - Nùng.
Đối với lao động phục vụ tại các nhà hàng, khách sạn đòi hỏi trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu phục vụ như kỹ năng phục vụ bàn, trình độ ngoại ngữ… Đối với đối tượng là người dân, tiểu thương tham gia các hoạt động ẩm thực đường phố, ẩm thực gắn với du lịch cộng đồng, họ còn phải trang bị kiến thức về an toàn thực phẩm, nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống trong hoạt động ẩm thực khi phục vụ du lịch, thái độ ứng xử văn minh lịch sự… Tại các sự kiện ẩm thực, có tổ chức hoạt động trình diễn món ăn, đòi hỏi đầu bếp phải được đào tạo kỹ năng biểu diễn kết hợp với phương pháp chế biến để phục vụ du khách. Bên cạnh đó, có đội ngũ thuyết minh viên, hướng dẫn viên tại điểm được tập huấn để nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc bảo tồn, phát huy giá trị của ẩm thực thông qua giới thiệu nguồn gốc xuất xứ món ăn, nguyên liệu, cách chế biến, thưởng thức theo phong cách của địa phương để thu hút khách du lịch.
Năm là, xây dựng các chương trình chuyên về ẩm thực Tày - Nùng: Chương trình du lịch trải nghiệm nấu ăn đưa vào thành một nội dung trong tour du lịch đã mang lại cho du khách những trải nghiệm đặc biệt, thay vì vào nhà hàng thưởng thức đồ ăn, họ được tự chế biến và thưởng thức thành quả của mình dưới sự hướng dẫn của đầu bếp, nghệ nhân hoặc chính người dân địa phương. Đây là loại hình du lịch không mới nhưng rất thu hút khách du lịch, vừa góp phần truyền bá văn hóa của điểm đến, vừa góp phần tăng sự thú vị của chuyến đi, đem lại doanh thu, góp phần phát triển loại hình du lịch ẩm thực, du lịch trải nghiệm hay du lịch cộng đồng. Qua đó, du khách không đơn thuần chỉ học nấu ăn mà sẽ được thỏa mãn nhu cầu hiểu biết văn hóa của dân tộc Tày - Nùng, thể hiện trên những sắc màu văn hóa ẩm thực họ được trải nghiệm, khám phá, tận hưởng không gian đầy màu sắc và cảnh quan tươi đẹp của tỉnh Cao Bằng.
Sáu là, tạo cơ hội kinh doanh: Thúc đẩy sự phát triển kinh tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ẩm thực. Điều này có thể bao gồm việc cung cấp hỗ trợ tài chính, giảm thuế hoặc tạo ra các chính sách khuyến khích để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này. Đồng thời, cần tạo môi trường làm việc cạnh tranh và thuận lợi cho các doanh nghiệp mới.
Nhóm giải pháp
|
Nhóm giải pháp |
Nội dung cụ thể |
|
Nghiên cứu - bảo tồn |
Lập hồ sơ di sản ẩm thực, ghi chép công thức, tổ chức lễ hội truyền thống |
|
Phát triển sản phẩm |
Xây dựng khu ẩm thực Tày - Nùng, liên kết homestay - nhà hàng - tour du lịch |
|
Xây dựng thương hiệu |
Quảng bá qua mạng xã hội, video, hội chợ, gắn với hình ảnh du lịch Cao Bằng |
|
Đào tạo nguồn nhân lực |
Mở lớp kỹ năng chế biến, phục vụ, thuyết minh, đào tạo đầu bếp - hướng dẫn viên |
|
Tổ chức tour trải nghiệm |
Du khách tự nấu ăn, tìm hiểu văn hóa, kết hợp khám phá cảnh quan địa phương |
Kết luận
Việc khai thác giá trị văn hóa ẩm thực Tày - Nùng không chỉ góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn tạo ra mô hình phát triển du lịch bền vững, nâng cao đời sống cho người dân. Do đó, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, cộng đồng và doanh nghiệp, dưới sự dẫn dắt của các chủ trương chính sách văn hóa - du lịch của Đảng và Nhà nước ta để vừa phát triển kinh tế và bảo tồn được giá trị văn hoá các dân tộc ở địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công văn số 677/HD-BVHTTDL ngày 03/03/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về thực hiện Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
4. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ chính trị khóa XII “Về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn”.
5. Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
6. Nghị quyết số 88/2019/QH14 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 thông qua ngày 18/11/2019.
7. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025.
[1] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 458.
[2] Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ chính trị khóa XII “Về phát triển du lịch trở thành kinh tế mũi nhọn”.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.145-146.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, t.1, tr.155.
[5] Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
[6] Theo https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thuc-tien-kinh-nghiem1/-/2018/826069/tinh-cao-bang-thuc-hien-dot-pha-chien-luoc-dua-du-lich-tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-nhon.aspx
[7] Theo điều tra dân số ngày 01/04/2019 của Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng.