Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay

21/12/2021

Tóm tắt

Tuyên truyền thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay nhằm thực hiện mục tiêu: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính sách dân tộc cần thường xuyên sơ kết, tổng kết công tác tuyên truyền nhằm phát huy những điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, yếu kém. Trên cơ sở đó, tìm ra những nguyên nhân để có giải pháp mang tính hệ thống, khoa học, khả thi cho công tác tuyên truyền. Vì thế, trên cơ sở nghiên cứu thực tế, bài viết đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam hiện nay như: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền chính sách dân tộc; Chăm lo phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, đào tạo, từng bước nâng cao chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số; Tuyên truyền, giáo dục nhận thức về vai trò, vị trí của công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam; Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam; tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay.

Từ khóa: Công tác tuyên truyền; Chính sách dân tộc; Vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

1. Đặt vấn đề

Công tác tuyên truyền nói chung, công tác tuyên truyền chính sách dân tộc (CSDT) nói riêng là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp, ngành và mỗi cán bộ, đảng viên để đưa chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống một cách thiết thực, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng thời, kịp thời phản ánh với các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng những vấn đề mà đồng bào quan tâm, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ, góp phần thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta rất quan tâm đến công tác tuyên truyền, trong đó có công tác tuyên truyền CSDT. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển của đất nước để “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền CSDT cho vùng đồng bào DTTS ở nước ta sẽ góp phần khắc phục chênh lệch về điều kiện sống, tạo tiền đề cho đồng bào DTTS vùng sâu, vùng xa có thời cơ để phát triển, xóa đói, giảm nghèo, vươn lên khai thác thế mạnh, khắc phục hạn chế ở mỗi địa phương. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Tổng quan nghiên cứu

Từ trước đến nay đã có một số tác giả nghiên cứu về việc tuyên truyền CSDT, trong số đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Thông tin về dân tộc miền núi trên VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam” của Nguyễn Xuân An Việt. Tác giả khảo sát và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình, từ đó tăng cường hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền những vấn đề về dân tộc, miền núi của Đài Truyền hình Việt Nam; Bài viết “Tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc” (2006) của Trần Quang Nhiếp, khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, thông qua đó tuyên truyền cho đồng bào DTTS về truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số đề tài, bài viết liên quan đến vấn đề tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS và miền núi như: “Truyền thông ở vùng DTTS, thực trạng và giải pháp”, Mã số đề tài: CTDT.31.17/16-20; Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Thực trạng công tác tuyên truyền chính sách dân tộc trên các phương tiện truyền thông” do Ủy ban Dân tộc tổ chức ngày 10/12/2021. Bài viết đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của công tác truyền thông CSDT đến với đồng bào DTTS, đồng thời đề cập những khó khăn, hạn chế và đưa ra giải pháp, mô hình để tuyên truyền hiệu quả nhất trong giai đoạn tới.

Tuy vậy, các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền CSDT đến nay vẫn chưa nhiều. Thế nên bài viết phân tích một số nội dung liên quan đến công tác tuyên truyền CSDT, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS ở Việt Nam là vấn đến hết sức cần thiết hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu

Bài viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tuyên truyền, CSDT. Trong đó, bài viết sử dụng một số phương pháp chủ yếu như phương pháp lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn… để nghiên cứu, giải mã thực tiễn tuyên truyền chính sách dân tộc.

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Chính sách dân tộc và công tác tuyên truyền chính sách dân tộc

“Chính sách dân tộc” (được hiểu là CSDT của Đảng và Nhà nước Việt Nam) là tổng hợp các quan điểm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp tác động đến các dân tộc, vùng DTTS và miền núi, nhằm phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa các dân tộc theo hướng đảm bảo khối đại đoàn kết thống nhất giữa các dân tộc và phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam” [4, tr.7-8].

Có thể kể một số CSDT của Đảng và Nhà nước ta đã được các chủ thể tuyên truyền thực hiện một cách đầy đủ, sâu rộng từ trước đến nay như: Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế, xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng DTTS và miền núi (hay còn gọi tắt là Chương trình 135), đã trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (1997 - 2006), giai đoạn 2 (2006 - 2010) và hiện nay là giai đoạn 3; Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở (hay cọn gọi là Chương trình 167); Quyết định số 2472/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012-2015... nhằm nâng cao nhận thức của đồng bào các DTTS cùng nhau phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; Quyết định số1163/QĐ-TTg ngày 08/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng DTTS và miền núi giai đoạn 2017 - 2021; Quyết định số 771/QĐ-TTg ngày 26/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2018 - 2025; Quyết định số 219/QĐ-TTg ngày 21/02/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo; Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới. Đặc biệt là Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 15/7/2020 về việc phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030…

Theo Từ điển tiếng Việt (1997), “Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người tán thành, ủng hộ và làm theo” [5, tr.1031]. Trong bài “Người tuyên truyền và cách tuyên truyền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân tin, dân theo, dân làm. Nếu không đạt mục tiêu đó là tuyên truyền thất bại” [3, tr.162]. Theo đó, công tác tuyên truyền CSDT là hoạt động có chủ đích của chủ thể tuyên truyền, tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến đối tượng tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về CSDT; hình thành thái độ, niềm tin và tính tích cực hành động ở đối tượng tuyên truyền trong việc thực hiện CSDT ở vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Công tác tuyên truyền CSDT góp phần quan trọng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và đồng bào DTTS về tính khoa học, nhân văn của quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta; Cổ vũ hành động, động viên cán bộ và đồng bào DTTS thực hiện tốt CSDT; Góp phần thay đổi thái độ, hành vi của cán bộ, đảng viên và đồng bào DTTS; nâng cao hiệu quả đấu tranh ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù bên trong và bên ngoài; Góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS và miền núi, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nâng cao hiệu quả chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Góp phần nêu gương, nhân rộng và lan tỏa những cá nhân, tập thể điển hình trong thực hiện CSDT ở vùng đồng bào DTTS...

Thành tựu đạt được trong công tác tuyên truyền CSDT có thể nhìn thấy khá rõ nét. Một là, đã tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối, CSDT của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào DTTS một cách sâu rộng; tuyên truyền cách phát triển sinh kế, hướng dẫn chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, tích cực xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Hai là, chất lượng công tác tuyên truyền các chính sách thực hiện đại đoàn kết dân tộc ngày càng được nâng cao; chính sách giáo dục, truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng, lòng tự hào dân tộc của đồng bào DTTS trong giai đoạn hiện nay được nâng cao; Ba là, chất lượng công tác tuyên truyền trong đồng bào DTTS về những cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến trong việc thực hiện CSDT ngày càng nâng lên; Bốn là, tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS tích cực xây dựng đời sống văn hóa, phát triển giáo dục, y tế, phòng chống tệ nạn xã hội, xóa bỏ hủ tục lạc hậu dần được cải thiện; Năm là, công tác tuyên truyền đồng bào DTTS nâng cao cảnh giác, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ngày càng tốt hơn.

Tuy nhiên, những hạn chế trong công tác tuyên truyền CSDT ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại. Cụ thể là, một số Đảng bộ địa phương chưa lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền CSDT, nên chất lượng tuyên truyền chưa như mong muốn. Việc kiểm tra, biểu dương cán bộ, đảng viên gương mẫu chưa kịp thời, thường xuyên; việc kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm theo quy định của Đảng và Nhà nước còn chưa quyết liệt. Tư duy của một số cấp ủy Đảng và một số cán bộ, đảng viên ở địa phương chưa đầy đủ, dẫn đến còn có tư tưởng coi nhẹ và đánh giá công tác tuyên truyền CSDT chưa khách quan, chưa thấy được vị trí và tầm quan trọng của nó đối với việc phát triển chung của tỉnh. Sự phối kết hợp trong công tác tuyên truyền CSDT giữa các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội chưa thực sự chặt chẽ và thống nhất.

Hơn nữa, lực lượng làm công tác tuyên truyền CSDT của các tỉnh nhìn chung còn mỏng, nghiệp vụ lại chưa đồng đều, do đó tác động không nhỏ đến việc nắm bắt tình hình, tổng hợp chính sách và triển khai tuyên truyền chính sách đến với đồng bào. Trình độ học vấn của các già làng, trưởng thôn bản, người có uy tín nhìn chung còn thấp, một số ít không biết đọc, biết viết nên việc nắm bắt tình hình xã hội còn nhiều bất cập. Nội dung tuyên truyền CSDT chưa thực sự đổi mới, còn xa rời thực tiễn và chồng chéo, nên việc nắm bắt nội dung CSDT của đồng bào chưa được đầy đủ, còn chung chung, mơ hồ. Thêm vào đó, mặt bằng dân trí của đồng bào DTTS còn hạn chế. Đồng bào chính là đối tượng trực tiếp đón nhận, thụ hưởng CSDT của Đảng và Nhà nước, nhưng hiện nay, một bộ phận không nhỏ đồng bào DTTS không biết chữ, không biết tiếng phổ thông nên dễ bị kẻ xấu lôi kéo, xuyên tạc chính sách, vì vậy rất dễ gây hiểu sai về nội dung CSDT.

Hiện nay, một bộ phận đồng bào DTTS ở vùng sâu, vùng xa chưa có ý chí vươn lên, chưa có tinh thần tự lực để thoát nghèo, vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa chưa thực sự vững chắc, công tác phát triển Đảng còn chậm, chất lượng cán bộ còn thấp. Phương pháp, kỹ năng tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS còn hạn chế. Nguồn kinh phí để đầu tư cho công tác tuyên truyền CSDT ở vùng DTTS còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu; cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng, công nghệ, trang thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền CSDT ở các địa phương còn thiếu, cũ kỹ, lạc hậu, hư hỏng.

Qua đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS Việt Nam những năm gần đây cho thấy, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn có những hạn chế nhất định từ chủ thể trong công tác tuyên truyền CSDT; nội dung, hình thức, phương pháp, kỹ năng, phương tiện tuyên truyền CSDT cho tới kinh phí, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới, tăng cường công tác tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS Việt Nam hiện nay.

4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam

4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với công tác tuyên truyền chính sách dân tộc

Đây là giải pháp có tính nguyên tắc, then chốt, quyết định sự thành bại của công tác tuyên truyền CSDT. Để tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác tuyên truyền CSDT, cần thực hiện tốt những nội dung sau:

- Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng ngang tầm với nhiệm vụ công tác tuyên truyền CSDT trong tình hình mới. Nhiệm vụ của công tác tuyên truyền ngày càng đồi hỏi cao, để hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền CSDT, đòi hỏi các cấp ủy Đảng phải đổi mới phương thức, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo đối với công tác tuyên truyền CSDT. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng là đổi mới phương pháp và cách thức lãnh đạo sao cho sự lãnh đạo đó thật sự vững chắc, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ công tác tuyên truyền CSDT trong tiến trình đổi mới của đất nước hiện nay. Mọi quyết định và chỉ đạo của cấp ủy Đảng về công tác tuyên truyền phải bắt nguồn từ nhu cầu cuộc sống của đồng bào DTTS, phù hợp với đồng bào thì CSDT mới đi vào cuộc sống một cách thiết thực, vững chắc. Do đó, Đảng bộ các cấp cũng phải căn cứ nhiệm vụ từng lĩnh vực cụ thể mà chỉ đạo công tác tuyên truyền CSDT sao cho phù hợp với nội dung, hình thức, phương pháp và phương tiện.

Đổi mới cách thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng là cải tiến lề lối làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đã được xác định: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, nghị quyết, chịu trách nhiệm chính trị trong mọi hoạt động ở đơn vị và địa phương, nhưng cấp ủy các cấp không được bao biện, làm thay chính quyền và đoàn thể, cũng không buông lỏng, hạ thấp vai trò lãnh đạo và cầm quyền của mình. Trên thực tế ở một số địa phương trong cả nước còn xảy ra tình trạng công tác tuyên truyền CSDT còn bị xem nhẹ, thường là khi có “sự kiện” mới nhận ra do lơ là, chủ quan, buông lỏng quản lý, kiểm tra, giám sát.

Năng lực lãnh đạo công tác tuyên truyền CSDT của Đảng bộ các cấp là năng lực định hướng mục đích tuyên truyền, tư tưởng chính trị đúng đắn cho từng địa phương, tạo tiền đề để thống nhất tư tưởng và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong toàn Đảng bộ. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, các cấp ủy Đảng địa phương cần sử dụng tốt đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT, kể cả chuyên trách và không chuyên trách. Bên cạnh đó, các cấp ủy Đảng cần thường xuyên tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của đồng bào DTTS, nắm bắt diễn biến tư tưởng thông qua dư luận xã hội làm cơ sở để định ra đường lối tuyên truyền hợp ý Đảng, lòng dân. Các cấp ủy Đảng cần có kế hoạch chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiện toàn cán bộ lãnh đạo, huy động sự hỗ trợ tích cực của các cấp chính quyền, cơ quan, tổ chức về mặt tài chính cho các hoạt động tuyên truyền CSDT đến với vùng đồng bào DTTS.

- Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách dân tộc trong Đảng bộ các địa phương và trong toàn xã hội, tạo sự thống nhất ý chí và hành động cách mạng. Xuất phát từ luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, công tác tư tưởng nói chung hay công tác tuyên truyền, vận động nói riêng không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trước hết, mọi đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý của các cơ quan chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội, văn hóa phải gương mẫu, phải coi công tác tuyên truyền CSDT là hoạt động cơ bản, quan trọng và phải biết động viên, khuyến khích đồng bào DTTS cùng tham gia. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần sâu sát quần chúng (kể cả những người có ý kiến trái ngược), biết tuyên truyền, giáo dục quần chúng. Đảng viên nên sống giản dị, liêm khiết và gần gũi với nhân dân, nói phải đi đôi với làm thì lời nói mới có sức thuyết phục. Nếu có khuyết điểm, sai lầm, vi phạm lợi ích của dân thì phải thành thực kiểm điểm, nghiêm túc sửa chữa và chân thành xin lỗi trước đồng bào. Mọi công việc cách mạng mà đảng viên làm đều có liên quan đến lợi ích và niềm tin của quần chúng cần phải được quần chúng theo dõi, kiểm tra, góp ý. Đảng viên phải gương mẫu thực hiện và tạo điều kiện để mọi người cùng thực hiện tốt Chỉ thị của Bộ Chính trị và Nghị định của Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, vừa tạo điều kiện phát huy tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng trí tuệ của nhân dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng, vừa tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên. V.I.Lênin đã từng viết: “Đội tiền phong chỉ làm tròn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt toàn thể quần chúng tiến lên” [6; tr.28].

Từ những luận điểm trên cần có những định hướng, quyết định đúng đắn, kịp thời hơn đối với công tác tuyên truyền CSDT; kết hợp định hướng trong Đảng với phát huy tự do sáng tạo tinh thần, tư tưởng của đồng bào DTTS, góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS nước ta trong giai đoạn hiện nay.

4.2.2. Chăm lo phát triển kinh tế, phát triển giáo dục, đào tạo, từng bước nâng cao chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số

Quan tâm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phù hợp với đặc điểm và điều kiện của từng dân tộc. Xóa đói, giảm nghèo, giải quyết công ăn việc làm cho đồng bào.

Cùng với việc phát triển kinh tế, sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế trong vùng đồng bào DTTS, cần tiếp tục được ưu tiên đầu tư phát triển. Tiếp tục thực hiện các chính sách đã ban hành ở các lĩnh vực văn hóa, xã hội; đẩy mạnh phong trào xây dựng nông thôn mới; xây dựng thôn, bản, gia đình văn hóa. Chú trọng việc sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của các DTTS, hỗ trợ xây dựng, khai thác sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở vùng DTTS. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục ở vùng DTTS, hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông bán trú. Nhân rộng, phát triển thêm các trường bán trú; phát triển giáo dục mầm non trong vùng DTTS; tổ chức dạy tiếng phổ thông ngay từ lớp mầm non, mẫu giáo. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, phát triển các dịch vụ y tế, tăng cường cán bộ y tế về công tác ở vùng đồng bào DTTS; bố trí và sử dụng có hiệu quả đội ngũ y, bác sỹ đã cử tuyển sau khi ra trường. Chương trình nâng cấp bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực (theo Quyết định số 225/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ) được các địa phương ở vùng đồng bào DTTS chú trọng thực hiện. Công tác khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo theo Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã được quan tâm và cải tiến về thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào đến khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế công lập.

4.2.3. Tuyên truyền, giáo dục nhận thức về vai trò, vị trí của công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam

Công tác tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS ở Việt Nam là hoạt động đa dạng và phức tạp nhằm giáo dục, vận động, thuyết phục quần chúng hiểu, tin và hành động theo đường lối cách mạng của Đảng. Để thực hiện công việc khó khăn, phức tạp đó, cán bộ tuyên truyền phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin sắt đá, có tri thức đầy đủ, có trình độ nghề nghiệp tinh thông, nhiệt tình và sức sáng tạo cao.

 Trên thực tế, một số địa phương còn chưa quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên truyền CSDT, chưa quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, sự tác động của tuyên truyền và những hiệu quả của nó đến thực hiện CSDT. Vì vậy cần phân công cụ thể cho từng cơ quan,  đơn vị.

Tăng cường phổ biến vai trò, vị trí của công tác tuyên truyền CSDT trong việc đưa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhất là những chủ trương, chính sách liên quan đến dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, các chương trình hỗ trợ cho đồng bào vùng DTTS. Cung cấp những kiến thức về an ninh, quốc phòng, phòng chống tệ nạn xã hội, âm mưu thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của đồng bào ta. Từ đó nhằm nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của công tác tuyên truyền CSDT một cách đúng đắn và rộng rãi trong vùng đồng bào DTTS trên cả nước.

4.2.4. Kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số

Làm tốt công tác quy hoạch, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDTở vùng DTTS sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ toàn diện, đồng bộ, có chất lượng, đảm bảo tính kế thừa và liên tục trong đội ngũ cán bộ. Đây là giải pháp trực tiếp tác động đến hiệu quả lãnh đạo, quản lý của người cán bộ và hoạt động của cả hệ thống chính trị. Nếu bố trí đúng người, sử dụng đúng cán bộ, thì đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT “tài nhỏ cũng hoá thành tài to” và ngược lại. Mặt khác, kết hợp đúng đắn việc sử dụng bố trí đội ngũ cán bộ tại địa phương với thực hiện luân chuyển, điều động và các chính sách thu hút cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT tăng cường cho cấp xã ở vùng đồng bào DTTS vừa có tác dụng kiện toàn đội ngũ cán bộ, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị ở địa phương, vừa giúp các cấp ủy thực hiện việc rèn luyện cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.

Bác Hồ đã dạy, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Thực tiễn cách mạng cho thấy, nếu có sự lãnh đạo của Đảng và sự hoạt động nhiệt tình, năng động, khôn khéo, sáng tạo, có tính thuyết phục cao của lực lượng cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT thì phong trào được đồng bào DTTS tham gia hưởng ứng và sẽ phát triển. Ngược lại ở những nơi còn thiếu hoặc cán bộ tư tưởng yếu kém thì nơi đó không tạo ra được sức mạnh nội lực của quần chúng để thu hút quần chúng.

Ngoài những tiêu chuẩn của cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT nhất định phải: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành tuyệt đối với Đảng; trung thực, có ý thức trách nhiệm cao với công việc và có tinh thần đổi mới, sáng tạo; không ngừng học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực nghiệp vụ, bổ sung kiến thức mới đáp ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng mới; có đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch; luôn bám sát cơ sở, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của đồng bào…

Đội ngũ những người làm công tác tuyên truyền CSDT muốn thành công, không thể thiếu tính nhiệt huyết, thiếu năng lực và trình độ so với yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ mới, vì vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT phải tích cực trau dồi kiến thức, học tập lý luận, trải nghiệm thực tiễn, nâng cao trình độ; nghiên cứu, nắm bắt, tổng kết thực tiễn để bổ sung lý luận. Trong điều kiện hiện nay, cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT không những chỉ có trình độ lý luận mà còn phải có năng lực thực hành, phải am hiểu phong tục, tập quán của đồng bào, phải biết nghe và biết nói tiếng DTTS để tuyên truyền và xử lý mọi tình huống. Bên cạnh đó cần có chính sách đãi ngộ hợp lý, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ thực sự yên tâm công tác.

4.2.5. Đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất kết hợp với đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện công tác tuyên truyền chính sách dân tộc phù hợp với thực tiễn địa phương và sát với đối tượng tuyên truyền

Có thể thấy rằng việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, phương tiện công tác tuyên truyền CSDT là một yêu cầu cấp thiết và phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đồng bào DTTS, đồng thời công tác tuyên truyền CSDT phải bám sát vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Công tác tuyên truyền CSDT cần phải đổi mới với các yêu cầu trên là nhiệm vụ cần thiết, thể hiện cụ thể:

Ngày nay, trong quá trình hội nhập và phát triển, các hình thức, phương pháp, phương tiện công tác tuyên truyền CSDT phải phong phú, đa dạng và phù hợp với nhiệm vụ chính trị khác nhau, khai thác những hình thức, phương pháp, phương tiện truyền thống kết hợp sử dụng các phương tiện hiện đại, sử dụng nhiều lực lượng để tham gia tuyên truyền.

Sử dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức làm công tác tuyên truyền CSDT, coi trọng hơn nữa công tác chỉ đạo và sử dụng có hiệu quả hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, hệ thống báo cáo viên, tuyên truyền viên phục vụ công tác tuyên truyền CSDT. Cần thực hiện sáng tạo, hiệu quả chủ trương cải tiến phương thức công tác tuyên truyền CSDT, cụ thể:

Một là, các cấp, các ngành, các địa phương cần phải đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại cho các phương tiện tuyên truyền như: Hệ thống đài truyền thanh, truyền hình; các loại sách; báo; tạp chí, ấn phẩm; các khẩu hiệu; biểu ngữ; panô; áp phích; tranh cổ động... Trong quá trình thực hiện tuyên truyền CSDT, các phương tiện kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tuyên truyền. Do vậy cần có sự đầu tư hệ thống các trang thiết bị công nghệ, kỹ thuật như: Điện thoại thông minh; máy chiếu; micro; phòng họp, bên cạnh đó phải trang bị và hướng dẫn đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền sử dụng thành thạo các thiết bị tuyên truyền. Đó là những phương tiện kỹ thuật hỗ trợ đắc lực cho lực lượng làm công tác tuyên truyền CSDT hoạt động có hiệu quả.

Trong thời đại cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), KHCN phát triển như vũ bão, nhất là công nghệ số đang phát triển nhanh chóng, tạo sự đột phá trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, đã tạo ra thời cơ và cả thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới, vì vậy đòi hỏi phải được quan tâm đầu tư cho KHCN để góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền CSDT, đáp ứng yêu cầu của công tác tuyên truyền trong tình hình mới.

Hai, tăng cường đối thoại, tránh độc thoại; mở rộng các hình thức thảo luận dân chủ tự do tư tưởng. Phát huy hơn nữa hình thức lớp học như đại đa số đồng bào DTTS được tiếp cận.

Ba là, hướng về cơ sở, bám sát cơ sở, đưa vũ khí tuyên truyền tác động trực tiếp vào tận cùng của thực tiễn cuộc sống, nơi triển khai toàn bộ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào DTTS.

Bốn là, cải tiến việc học tập Nghị quyết, xây dựng thành quy trình, lộ trình tiến hành, quy chế thực hiện, trong đó nhất thiết phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Nội dung và hình thức phải phù hợp với đối tượng, coi trọng thảo luận, tranh luận, dành nhiều thời gian thảo luận chương trình hành động để thực sự “Nói đi đôi với làm”.

Năm là, nội dung, hình thức tuyên truyền phải phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc. Cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT phải là cầu nối giữa lãnh đạo với quần chúng, giữa các đối tượng quần chúng với nhau, giữa các cơ quan quản lý với thông tin đại chúng. Đặc biệt là phải khơi dậy và lôi cuốn cho bằng được phong trào quần chúng tham gia làm công tác tư tưởng - văn hóa và phải tạo điều kiện cho họ được trực tiếp hưởng thụ ngày càng nhiều thành tựu của công tác tư tưởng - văn hóa.

 5. Thảo luận

Từ thực tế công tác tuyên truyền CSDT, có thể thấy, lực lượng làm công tác tuyên truyền CSDT cần có kế hoạch, chương trình cụ thể, gắn với thực tiễn để thích ứng với cuộc sống, định hướng dư luận xã hội. Sự phối kết hợp giữa các lực lượng làm công tác tuyên truyền CSDT cần nhuần nhuyễn, góp phần ổn định tư tưởng chính trị, hình thành và cổ vũ các phong trào hành động cách mạng của đồng bào DTTS.

Về đổi mới phương pháp công tác tuyên truyền CSDT, cần sử dụng phương pháp đối thoại, gợi mở vấn đề, kích thích tư duy cho đồng bào DTTS. Đồng thời, thông qua đối thoại, đồng bào DTTS được trình bày ý kiến, quan điểm, qua đó các vấn đề bức xúc được giải quyết kịp thời, tạo hứng thú cho đồng bào. Do đó, cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT phải có khả năng bao quát, có kiến thức sâu rộng, có quan điểm vững vàng, chủ động lắng nghe đồng bào.

Đổi mới phương tiện để truyền đạt CSDT đến với đồng bào DTTS. Bên cạnh việc xác định nội dung, hình thức và phương pháp trong tuyên truyền CSDT, thì đi đôi với đó là cần có các phương tiện để phục vụ, hỗ trợ cho quá trình thảo luận, truyền đạt thông tin, phải có số liệu minh họa hoặc hình ảnh cụ thể. Do đó, cán bộ làm công tác tuyên truyền cần có sự chuẩn bị nghiêm túc, chu đáo, bài bản, lựa chọn hợp lý xem phương tiện nào phù hợp, hiệu quả. Biết phát huy những phương tiện được đồng bào tiếp cận nhiều, tiện dụng trong quá trình truyền tải thông tin như loa, đài, khẩu hiệu, biểu ngữ… Đồng thời, phát huy hơn nữa những phương tiện hiện đại như internet, mạng xã hội (zalo, facebook…), báo mạng điện tử đến với đồng bào. Để làm được điều đó, cán bộ tuyên truyền phải thực sự gần dân và hiểu dân…

Việc đổi mới hình thức, phương pháp, phương tiện đều phải hướng tới mục đích tuyên truyền và hướng tới đồng bào DTTS để nâng cao hiệu quả hơn nữa công tác tuyên truyền CSDT vùng đồng bào DTTS. Ngoài ra, cần chú ý tới việc bồi dưỡng, chọn lựa cán bộ làm công tác tuyên truyền CSDT có phương pháp sư phạm, tâm huyết, nhiệt tình, biết tiếng DTTS để tuyên truyền, đặc biệt là người có uy tín được đồng bào tín nhiệm; Khuyến khích sự sáng tạo của người tuyên truyền trong việc đưa phương pháp mới vào quá trình tuyên truyền. Bên cạnh đó, cần có chính sách quy định về chế độ thông tin, tài liệu để bảo đảm các yêu cầu về báo chí đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tuyên truyền CSDT.

6. Kết luận

Công tác tuyên truyền CSDT ở vùng đồng bào DTTS Việt Nam hiện nay là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Thực trạng công tác tuyên truyền CSDT đã có những chuyển biến đáng kể, đồng bào DTTS đã có sự thay đổi nhận thức về CSDT của Đảng và Nhà nước, tích cực học tập, vươn lên xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống về mọi mặt... Tuy  nhiên, công tác tuyên truyền CSDT cũng gặp không ít những khó khăn: Nội dung tuyên truyền chưa thực sự đổi mới, hình thức tuyên truyền chưa phong phú, các phương tiện tuyên truyền còn lạc hậu, trình độ dân trí của đồng bào DTTS còn hạn chế... Chính vì vậy, việc đảm bảo các yêu cầu, giải quyết được những vấn đề đặt ra là góp phần nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền CSDT và góp phần nâng cao mức sống của đồng bào DTTS trong cả nước.

Công tác tuyên truyền CSDT muốn đạt được hiệu quả cao, cần phải nắm vững và bám sát đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Để làm tốt công tác đó cần tuyên truyền một cách chân thực, thực hiện tốt các giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nhận thức về vị trí cũng như vai trò của công tác tuyên truyền CSDT, đầu tư kinh phí, đổi mới hình thức, phương pháp, phương tiện… trong hoạt động tuyên truyền CSDT. Đồng thời, phải thường xuyên chú trọng bồi dưỡng, kiểm tra, đôn đốc công tác tuyên truyền và cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền CSDT vùng đồng bào DTTS hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (1995), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Lương Khắc Hiếu 2008 (Chủ biên), Nguyên lý công tác tư tưởng tập 1, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập (1995), tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Một số vấn đề đổi mới xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Từ điển tiếng Việt (1997), Nxb Hà Nội.

6. V.I. Lênin: Toàn tập, T.45, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1978.

 

ThS. Đặng Văn Dũng

Học viện Dân tộc

ĐIỆN THOẠI HỖ TRỢ

+ 0912.205.509
+ 0829.638.068