Bảo tồn văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở tỉnh thái nguyên hiện nay

21/11/2020

Văn hóa truyền thống là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần được kết tinh từ tất cả những gì tốt đẹp nhất, chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên bản sắc riêng của một dân tộc. Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 45 dân tộc thiểu số sinh sống, chiếm 29,87% dân số toàn tỉnh[1], trong đó, dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay và Dao có số dân cư  đông nhất. Các dân tộc thiểu số nơi đây có nhiều nét văn hóa độc đáo, đặc sắc. Đó là tài sản vô giá của đồng bào, được tích tụ, gìn giữ trong quá trình phát triển, đã và đang trở thành nguồn tài nguyên to lớn, tạo động lực phát triển bền vững kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số.

Thực hiện đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020”, công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đã có bước phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu. Các thiết chế văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số được trùng tu, tôn tạo, các hoạt động các lễ hội, thể thao dân tộc, trò chơi dân gian, ngày hội văn hóa các dân tộc được tổ chức có sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước. Đến nay, tỉnh Thái Nguyên có 17 di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó một số di sản đang từng bước trở thành sản phẩm du lịch như múa Tắc Xình của đồng bào dân tộc Sán Chay, lễ hội Ðền Ðuổm của đồng bào các dân tộc huyện Phú Lương[2]. Nhiều lễ hội của các dân tộc đã được bảo tồn và phát huy như: Lễ hội Cầu mưa của người Sán Chay ở Phú Lương, Lễ hội Lồng Tồng ATK ở Định Hóa, lễ hội Ooc’ bò của người dân tộc Nùng ở Đồng Hỷ hay nghi lễ cấp sắc của người Nùng, người Sán Dìu...

 Một số địa phương đã phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, tiêu biểu là mô hình bảo tồn làng văn hóa bản Quyên của người Tày ở Định Hóa gắn với phát triển du lịch cộng đồng đã mang lại hiệu quả thiết thực. Mô hình bảo tàng hóa di sản văn hóa của người Tày trong khu sinh thái Thái Hải là một thí dụ hết sức điển hình cho sự gắn kết giữa bảo tồn văn hóa với phát triển kinh tế xã hội. Trong 30 ngôi nhà sàn cổ, hơn 100 người là vợ chồng, con cái bà con dân tộc được mời hoặc tự nguyện về làng vừa cấy cày, trồng rau, nuôi cá vừa làm du lịch, đã thu hút du khách bởi chính nếp sinh hoạt truyền thống họ đang gìn giữ[3] Đến với mỗi gia đình tại làng du lịch Thái Hải, du khách sẽ có những trải nghiệm tuyệt với với những món ăn truyền thống như xôi nếp cẩm, rượu nếp, nộm hoa chuối, các món ăn từ cá, gà chăn thả tự nhiên… hay thưởng thức làn điệu dân ca Tày qua đàn tính, hát then, cọi, lượn vừa mộc mạc, bình dị mà thiết tha do các hướng dẫn viên, các gia đình gửi tới du khách.

Đặc biệt, tỉnh có nghề trồng chè nổi tiếng trên cả nước với những vùng chè như: Vùng chè Tân Cương (TP. Thái Nguyên); vùng chè La Bằng (huyện Đại Từ); vùng chè Sơn Phú (huyện Định Hóa)… với những đồi chè bát úp, mâm xôi, uốn lượn theo triền đồi… đầy quyến rũ du khách. Cùng với tài nguyên tự nhiên như một quà tuyệt vời mà thiên nhiên ban tặng, tỉnh còn có một kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng, tạo nên một sắc thái văn hóa độc đáo, riêng có. Một miền văn hóa với các nhịp điệu rộn ràng của nhịp gõ Tắc xình, giọng Then ngọt ngào, câu Sli, câu Lượn đắm say phảng phất mùi nếp nương hay tiếng khèn Mông, tiếng sáo réo rắt... làm say đắm lòng người. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng giúp ngành du lịch của tỉnh có những bước phát triển và khởi sắc.  

Nhiều hoạt động bảo tồn văn hóa gắn với phát triển du lịch, dịch vụ đã góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các địa phương, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào trên địa bàn. Chính nhờ đó, kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực, kết cấu hạ tầng được cải thiện rõ rệt, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số không ngừng nâng lên. Đến năm 2018, tỉnh không còn hộ đói, số hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm nhanh, 61 trong số 114 xã vùng dân tộc thiểu số đã đạt chuẩn nông thôn mới; có ba xã đặc biệt khó khăn đang hưởng các chính sách theo Chương trình 135 đã đạt chuẩn nông thôn mới và đủ điều kiện ra khỏi diện đầu tư của chương trình. Hiện tại, 100% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã, hơn 60% số đường trục xóm được cứng hóa, 99,67% số hộ dân vùng núi có điện lưới phục vụ sinh hoạt, 91% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đạt chuẩn về y tế, hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư, cơ bản chấm dứt tình trạng di cư tự do, giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc, vùng miền[4].

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế, hiệu quả trong việc khai thác còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng. Không ít những di sản đang có nguy cơ mai một, tại một số địa phương đã xảy ra việc tôn tạo không đúng quy chuẩn, quy cách, dẫn đến mất dấu ấn di tích và do đó mất giá trị văn hóa, lịch sử. Nhiều di sản phi vật thể quý giá đang ngày ít người tiếp nối, bị thất truyền. Nguyên nhân là do chưa xác định rõ và phát huy được những giá trị văn hóa độc đáo; chưa phát huy được vai trò của cộng đồng trong bảo tồn văn hóa tộc người; công tác truyền thông chưa bài bản; thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp và quản lý nhà nước để tạo sự khác biệt cho sản phẩm…

Để phát huy những kết quả đã đạt được, tăng cường phát huy giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp.

Một là, chú trọng khơi dậy những giá trị văn hoá truyền thống trong đời sống cộng đồng. Chú trọng tuyên truyền về lịch sử, truyền thống, phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số trong vùng; từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách chủ động, tích cực và tự giác. Đặc biệt, cần đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học môn văn hóa học cho các đối tượng, làm cho thế hệ trẻ hiểu và từng bước thấm nhuần bản sắc văn hóa của quê hương mình. Chỉ có như vậy cốt cách dân tộc, lòng tự tôn dân tộc mới luôn giữ vai trò hạt nhân trong quá trình toàn cầu hóa. Đây là một quá trình không thể nóng vội, nhưng cũng không thể chậm trễ mà cần được thực hiện thông qua nhiều biện pháp, trong đó có biện pháp giáo dục và tự giáo dục tại các địa phương trong toàn vùng để tạo điều kiện thuận lợi cho các yếu tố cấu thành văn hóa biến đổi theo chiều hướng tích cực, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hai là, chú trọng đầu tư nghiên cứu toàn diện văn hóa tộc người, nâng cao chất lượng các chương trình, dự án bảo tồn văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số. Cần nghiên cứu một cách có hệ thống hóa về văn hóa của mỗi dân tộc, làm rõ những giá trị cần được bảo tồn, phát huy, những nét văn hóa lạc hậu, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống cần loại bỏ. Trên cơ sở gạn đục, khơi trong, cần nghiên cứu đầy đủ cơ sở khoa học cho việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống cộng đồng. Tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ các chương trình, dự án bảo tổn văn hóa, tránh những sai phạm trong trùng tu, phục hồi các di sản văn hóa. Có kế hoạch tổ chức các hoạt động văn hóa thật bài bản, chuyên nghiệp, tạo sức lan tỏa trong đời sống cộng đồng. Khuyến khích các nghệ nhân trao truyền di sản văn hóa, nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu các di sản văn hóa của cộng đồng. Tăng cường tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động, chương trình văn hóa văn nghệ để đồng bào thấu hiểu giá trị văn hóa của tộc người mình. Đồng thời, tận dụng và lợi dụng thế mạnh của kỹ thuật truyền thông hiện đại để chuyển tải các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số có sức hấp dẫn, lan tỏa mạnh mẽ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các yếu tố cấu thành văn hóa biến đổi theo chiều hướng tích cực, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Ba là, gắn bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống với phát triển kinh tế - xã hội. Cần tiếp tục đổi mới chính sách phát triển văn hóa theo hướng gắn kết phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng nông thôn mới. Tập trung đầu tư khôi phục, tái hiện những lễ hội truyền thống vừa bảo đảm sắc thái dân gian, cốt cách dân tộc, vừa chứa đựng những yếu tố hiện đại; tôn vinh các giá trị văn hóa tốt đẹp, khích lệ sáng tạo giá trị văn hóa mới, tiến bộ, bỏ những hủ tục lạc hậu; chú trọng lồng ghép, cải biến những giá trị văn hóa truyền thống trong các sinh hoạt cộng đồng. Thường xuyên chú trọng đào tạo nhân lực nòng cốt cho bảo tồn phát huy giá trị văn hóa, chú ý coi trọng các chính sách, chế độ khuyến khích đối với các nghệ nhân trao truyền di sản văn hóa; phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân các dân tộc thiểu số, khuyến khích giới trẻ tiếp thu các di sản văn hóa dân tộc; tăng cường quảng bá hình ảnh văn hóa ở trong nước và quốc tế. Kết hợp giữ “xây” và “chống” trong quá trình đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn văn hóa ngoại lai hoặc phục hồi một các máy móc văn hóa truyền thống.

Bốn là, phát huy vai trò chủ thể văn hóa trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Khi chủ thể văn hóa được phát huy thì tự thân các sinh hoạt, hoạt động văn hóa tộc người có sức sống mãnh liệt. Vì vậy, các hoạt động văn hóa cần đem lại lợi ích thiết thực cho đồng bào tại chỗ, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho đồng bào. Đồng thời với bảo tồn các giá trị văn hóa đặc sắc mang lại lợi ích thiết thực cho đồng bào, cũng cần khuyến khích và phát huy vai trò của đồng bào trong bảo vệ không gian văn hóa nhất là bảo vệ các vùng chè, danh lam, thắng cảnh có liên quan, các làng nghề, khu du lịch sinh thái... bảo đảm sự phát triển một cách bền vững, tránh làm tổn hại đến môi trường tự nhiên, môi trường sống.

Những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc thiểu số ở Thái Nguyên đã được truyền từ đời này qua đời khác, tồn tại trong lòng mỗi người dân và trong từng cộng đồng tộc người. Tuy nhiên, những giá trị tốt đẹp đó được phát huy đến đâu, phát huy như thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều lực lượng, nhiều tổ chức. Trước sự tác động mạnh mẽ của nhiều yếu tố trong thời kỳ hội nhập quốc tế, để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý tộc người. Trong đó, cần chủ động, tích cực khơi dậy những giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng đời sống văn hóa mới, gắn bảo tồn giá trị văn hóa với phát triển bền vững kinh tế - xã hội là những giải pháp quan trọng hàng đầu, góp phần bảo tồn văn hoá truyền thống  một cách bền vững./.

Tài liệu tham khảo

  1. http://danvan.vn/Home/Cong-tac-dan-toc/10722/Dai-hoi-Dai-bieu-cac-dan-toc-thieu-so-tinh-Thai-Nguyen-lan-thu-III-thanh-cong-tot-dep
  2. https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/41911202-thai-nguyen-co-17-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia.html
  3. https://nhandan.com.vn/baothoinay/baothoinay-vanhoavannghe/item/40685202-bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-van-hoa-trong-dong-bao-dan-toc-thieu-so.html

TS. Phí Hùng Cường

 

 
ĐIỆN THOẠI HỖ TRỢ

+ 0912.205.509
+ 0829.638.068